CURSILLO VIETNAM AU CHAU

 

Lúc sống lại, chính Chúa Giêsu sẽ "đánh thức" người chết
Kinh Truyền Tin ngày 02 tháng 11 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma -02/11/2014 (Zenit.org)
Vào lúc sống lại, chính Chúa Giêsu sẽ "đánh thức" người chết, Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích nhân giờ Kinh Truyền Tin chúa nhật, 02/11/2014, ngày Giáo Hội nhớ tới những người đã chết, "tất cả những người đã chết", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Ngày lễ Các Thánh, 01/11, và ngày lễ các tín hữu đã khuất là dịp tạ ơn Thiên Chúa là Đấng "đã giải thoát chúng ta ra khỏi sự thống trị của tội lỗi và sự chết", Đức Giáo Hoàng nói thêm.
Ngài đã nhắc đức tin Kitô giáo trong sự kiện kẻ chết sống lại, sau khi Chúa Kitô phục sinh, sẽ kéo kẻ chết ra khỏi "giấc ngủ" của họ : "Thật là đẹp khi nghĩ rằng chính Chúa Giêsu sẽ đánh thức chúng ta". Quả vậy, Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở, "con người được tiền định sống vô thời hạn", bởi vì "mục đích cuối cùng của đời sống" chính là "Thiên Đàng".
Sau đây là bản dịch từ tiếng Pháp toàn văn bài nói của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước và sau Kinh Truyền Tin.
A.B.
Lời Đức Giáo Hoàng trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Hôm qua, chúng ta đã mừng trọng thể Lễ Các Thánh, và hôm nay, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy nhớ tới các tín hữu đã qua đời. Hai ngày lễ này gắn liền với nhau, cũng như niềm vui và nước mắt tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô một sự tổng hợp vốn là nền móng của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Một mặt, thực chất, Giáo Hội lữ hành trong lịch sử mừng vui nhờ lời cầu bầu của các thánh, các chân phước đang nâng đỡ Giáo Hội trong sứ vụ loan truyền Phúc Âm; mặt khác, như Chúa Giêsu, Giáo Hội chia sẻ nước mắt của người đau khổ vì chia cắt với người thân của mình; và, như Người, và nhờ Người, cho thấy được sự tạ ơn Chúa Cha đã giải thoát chúng ta ra khỏi sự thống trị của tội lỗi và sự chết.
Hôm qua và hôm nay, nhiều người đã đi ra thăm nghĩa trang, như tên gọi, là "chốn nghỉ ngơi", để đợi cuộc đánh thức sau cùng. Thật là đẹp khi nghĩ rằng chính Chúa Giêsu sẽ đánh thức chúng ta. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta rằng cái chết của thể xác là như một giấc ngủ và rồi Người sẽ đánh thức. Với đức tin này, chúng ta dừng chân – dù là cách thiêng liêng - trước phần mộ của người thân chúng ta, những người đã từng yêu và đã làm điều tốt lành cho chúng ta. Nhưng hôm nay, chúng ta được kêu gọi hãy nhớ đến tất cả mọi người, kể cả những người không có ai nhớ đến. Chúng ta nhớ đến các nạn nhân chiến tranh và bạo lực; rất nhiều những "em bé" bị đè bẹp vì đói khát và bần cùng; chúng ta nhớ đến những kẻ vô danh vùi thân trong những hố chôn tập thể. Chúng ta nhớ đến các người anh chị em chúng ta bởi vì họ là người Kitô hữu; và nhớ đến những người đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ người khác. Chúng ta hãy đặc biệt phó thác cho Chúa những người đã rời bỏ chúng ta trong năm nay.
Truyền thống của Giáo Hội đã luôn khuyên nhủ hãy cầu nguyện cho những người đã khuất, đặc biệt hãy dâng Thánh Lễ để cầu cho họ : Thánh Lễ là phương cách trợ giúp thiêng liêng tốt nhất mà chúng ta có thể hiến tặng cho các linh hồn, nhất là những linh hồn côi cút. Nền móng của sự cầu bầu là ở trong hiệp thông với Nhiệm Thể. Như Công Đồng Vaticanô II đã nhắc lại : "Giáo Hội lữ hành trên thế gian, ý thức rõ sự hiệp thông này với cả Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô, đã vun trồng ký ức về những người đã khuất với lòng sốt sắng, ngay từ những thời gian đầu của Kitô giáo" (Lumen gentium, 50).
Ký ức về những người đã khuất, việc săn sóc mộ phần và đọc kinh cầu bầu là bằng chứng của một niềm hy vọng đầy tin tưởng, bắt nguồn trong sự xác tín rằng cái chết không thắng được – cái chết không có lời nói sau cùng - số phận con người, rằng con người được tiền định có một cuộc sống bất tận, có nguồn gốc và sự viên mãn nơi Thiên Chúa. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa bài kinh này :
"Lậy Thiên Chúa của lòng thương xót vô biên, chúng con phó thác cho lòng lân tuất bao la của Chúa tất cả những người đã rời bỏ thế gian này về nơi vĩnh cửu, nơi Chúa đợi toàn thể nhân loại, được cứu chuộc bởi Máu Thánh Chúa Kitô, Con Chúa, chịu chết để đền bù tội lỗi chúng con. Lạy Chúa, xin Chúa đừng nhìn tới những sự nghèo hèn, khốn cùng và yếu đuối con người, khi chúng con đến trước tòa phán xét để được hưởng hạnh phúc hay bị án phạt. Xin Chúa ghé mắt thương xót toát ra từ lòng nhân lành của Chúa mà đoái nhìn chúng con, và giúp đỡ chúng con bước đi trên con đường thanh tẩy vẹn toàn. Xin đừng để ai trong các con cái Chúa bị mất đi trong lửa đời đời chốn hỏa ngục, nơi không còn cơ hội hối cải nữa. Lậy Chúa, chúng con phó thác cho Chúa linh hồn những người thân thuộcc của chúng con, những người đã chết mà không được sự an ủi của các phép Bí Tích, và những người không kịp ăn năn hối cải, dù là vào giây phút cuối đời của họ. Xin Chúa đừng để ai phải sợ hãi khi gặp mặt Chúa, sau chuyến lữ hành trên thế gian, trong niềm hy vọng được đón nhận trong vòng tay thương xót vô biên của Chúa. Xin Chúa cho Thần Chết thể xác thấy được chúng con vẫn luôn sốt sắng cầu nguyện và mang nặng trên vai mọi việc lành đã thực hiện được trong cuộc đời ngắn ngủi hay trường thọ của chúng con. Lạy Chúa, xin cho không có gì có thể làm chúng con xa cách Chúa trên cõi đời này, mà xin cho tất cả mọi sự nâng đỡ chúng con trong mong muốn được an nghỉ ngàn thu nơi Chúa. Amen.
(Cha Antonio Rungi, dòng Thương Khó Chúa Giêsu ở Ý, Kinh cầu cho những người chết)
Với đức tin vào số phận sau cùng của con người như thế, bây giờ chúng ta hãy chạy đến cùng Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã chịu đau dưới chân Thánh Giá về cái chết của Chúa Kitô và đã thông hiệp với niềm vui sống lại của Người. Xin Mẹ là Cửa Thiên Đàng, giúp cho chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn giá trị của việc cầu nguyện cho những người đã khuất. Những người đó rất gần gũi chúng ta ! Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hàng ngày của chúng ta trên thế gian và giúp cho chúng ta đừng bao giờ quên đi mục đích sau cùng của đời sống là Thiên Đàng. Và với niềm hy vọng không hề làm nản lòng ai này, chúng ta hãy tiến lên !
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến,
Tôi chào mừng các gia đình, các nhóm của các giáo xứ, các đoàn thể và tất cả các khách hành hương đến từ Rôma, từ Ý, và từ nhiều nơi trên thế giới. Tôi đặc biệt chào mừng các tín hữu của giáo phận Séville (Tây Ban Nha) những người đến từ Case Finali in Cesena và những thiện nguyện viên của Oppeano và của Granzette đã làm hề-chữa bệnh trong các bệnh viện. Tôi đang nhìn thấy họ đây, ở đó : anh chị em hãy tiếp tục làm như thế đi ! Điều đó có ích biết bao cho các bệnh nhân. Chúng ta chào mừng những người tốt lành !
Tôi chúc tất cả các anh chị em một ngày chúa nhật tốt đẹp trong khi nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã quá cố. Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi. Tạm biệt !
Bản dịch tếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 2 novembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/a-la-resurrection-c-est-jesus-lui-meme-qui-reveillera-les-morts

 

 

Thánh Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng của Lễ Các Thánh
Và Lễ "Vị Thánh Vô Danh"  

Rôma – 31/10/2014 (Zenit.orgAnita Bourdin
Ngày Lễ Các Thánh, cũng là ngày kỷ niệm lễ thụ phong linh mục của thầy Karol Wojtyla, nay là Thánh Gioan Phaolô II. Ngài đúng là đã được truyền chức linh mục nhân ngày Lễ Các Thánh, ngày 01/11/1946, trong nhà nguyện Wawel ở Krakow, gần phần mộ của các vua và các thánh Balan, từ tay Đức Hồng Y Adam Stefan Sapieha (1857-1951), trong lúc mà đất nước của ngài bắt đầu cảm thấy ách thống trị nặng nề của Liên Xô.
Có lần, ngài đã tuyên bố là ngài đặt các lễ tuyên phong chân phước và hiển thánh thành những việc làm quan trọng nhất của triều đại ngài. Ngài đã thấy trong lễ Các Thánh là ngày lễ của các vị thánh được tuyên phong và đồng thời cũng là ngày lễ của những vị thánh "vô danh".
Ngày lễ kính tất cả các thánh, như thế đã gần như là một ngày lễ đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II, vị "Giáo Hoàng của sự thánh thiện", cũng như có lần Đức Hồng Y người Bồ Đào Nha, José Saraiva Martins, đã nói khi ngài còn là tổng trưởng thánh bộ mà Đức Giáo Hoàng – và Chúa Thánh Linh – đã ban cho thật nhiều công việc : Bộ Phong Thánh.
Trong suốt triều đại của ngài (16/10/1978 – 05/04/2005), ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên phong hiển thánh cho 482 chân phước, trong 52 Thánh Lễ phong thánh (38 tại Vatican và 14 trong các chuyến tông du quốc tế), tức là gấp 6 lần tất cả các vị tiền nhiệm của ngài cộng lại, trong 4 thế kỷ, từ Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, đã băng hà năm 1605.
Ngài đã tuyên phong chân phước cho 1341 giáo dân, trong 147 lễ tuyên phong (86 tại Vatican và 61 ở nước ngoài).
Đức Gioan Phaolô II quả đã ưu tư muốn đem lại những khuôn mẫu của đời sống Kitô giáo cho các quốc gia, các dân tộc, các Giáo Hội, hay các hoàn cảnh sống không có hoặc có ít khuôn mẫu thánh thiện. Đó là trường hợp các dân du cư đã có vị chân phước đầu tiên nơi ông Zephyrin Gimenez Malla (1861-1936); tử đạo trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha.
Đó là trường hợp các trẻ em từ nay đã có nơi Jacinthe và Phanxicô Marto, các trẻ mục đồng ở Fatima, những chân phước nhỏ đầu tiên không phải là tử vì đạo.
Đó là trường hợp các gia đình, ông Louis và bà Beltrame Quattrocchi là cặp vợ chồng đầu tiên được tuyên phong chân phước chung một lúc và ngày lễ kính theo phụng vụ đã được Đức Giáo Hoàng ấn định là ngày kỷ niệm đám cưới hai người, 25/11.
Đó là trường hợp Giáo Hội công giáo Hy Lạp ở Ukraina, trước đây bị triệt tiêu và bách hại bởi Stalin.
Các lễ tuyên phong hiển thánh và chân phước cũng là một cơ hội để "trả lại sự thật cho lịch sử", mặc dù nó có thể không được tất cả dư luận quần chúng cho là "phù hợp trên mặt chính trị" : Đức Giáo Hoàng đã tuyên phong nhiều chân phước đã tử vì đạo trong cuộc Các Mạng Pháp, vừa rồi đã bị quên lãng trong các lễ nghi kỷ niệm 200 năm, các thánh tử vì đạo trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha, bị quên lãng trong hầu hết các sách giáo khoa lịch sử, các thánh tử vì đạo dưới thời quốc xã (kể cả người Đức) và những người dưới chủ nghĩa cộng sản, như Đức Hồng Y Stepinac ở Cratia, năm 1998, mặc cho đã có những tranh cãi.
Nhưng, và điều này có thể giống như một nghịch lý, Đức Gioan Phaolô II là người, trong suốt triều đại của ngài, luôn nhấn mạnh về sự công nhận đời sống thánh thiện trong Hội Thánh, lại đồng thời là vị Giáo Hoàng đã công khai xin lỗi vì tội lỗi của các con cái của Hội Thánh, như tại Paris năm 1997, với lời xin lỗi về vụ Saint Barthélémy. Và nhất là, với sự xin lỗi được sắp xếp ở trung tâm Năm Đại Thánh Nhập Thể, ngày 12/3/2000, tại Đền Thánh Phêrô. Đức Giáo Hoàng đã mời gọi hãy làm một cuộc thanh tẩy ký ức, để đưa Hội Thánh bước sang thiên kỷ thứ III. Phóng viên người Ý, Luigi Accatoli đã góp nhặt những lời xin lỗi đó trong cuốn sách của ông nhan đề là "Khi Đức Giáo Hoàng xin lỗi".
Nhưng, sự thanh tẩy này - nghịch lý chỉ là bề ngoài - nhắm tới sự thánh thiện. Bởi vi, vị Giáo Hoàng người Ba Lan này đã không ngừng nhắc nhở, ví dụ cho các giám mục khi họ triều kiến ad limina với ngài, lời kêu gọi nên thánh hoàn vũ là trung tâm của Phúc Âm, trung tâm của thông điệp Công Đồng Vaticanô II, và trung tâm của mọi hoạt động mục vụ Hội Thánh, trung tâm của Tân Phúc Âm hóa.
Đích thân người Ké Vị thánh Phêrô đã làm gương thánh thiện : Đức Phaolô VI vừa được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên phong chân phươóc, hôm 19/10/2014, sau lễ tuyên phong hiển thánh của ĐGH Gioan Phaolô II và ĐGH Gioan XXIII, hôm 27/4/2014 vừa qua. Và án phong thánh cho ĐGH Gioan Phaolô I đã được mở ra.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ đích thân cử hành lễ bế mạc năm phụng vụ, ngày chúa nhật 23/11/2014 bằng lễ nghi phong hiển thánh cho 6 vị, nhân ngày lễ kinh trọng thể Đức Kitô Vua.
Hai trong các vị thánh mới là người Ý, đã được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước là Đức Giám Mục Giovanni Antonio Farina (1803-1888), thầy Ludovico da Casoria, dòng Phanxicô (1814-1885).
Hai vị người Ý khác đã đươc Đức Giáo Hoàng Piô VI tuyên phong chân phước năm 1976 là Nicola de Longobardi (1649-1709) và Amato Ronconi (1226-1292).
Hai vị người Ấn Độ cũng sẽ được tuyên phong hiển thánh là Cha Kuriakose Elie Chavara Thánh Gia (1805-1871), dòng carmel, theo lễ nghi syro-malabar, sáng lập dòng Carmes Đức Mẹ Vô Nhiễm và Tu Hội Đức Mẹ Carmel (nữ tu dòng kín), được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước tại Ấn Độ năm 1986; và Mẹ Euphrasie Eluvathingal Thánh Tâm Chúa Giêsu (1877-1952) được tuyên phong chân phuớc bởi ĐGH Biển Đức XVI năm 2006.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch.
(31 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/saint-jean-paul-ii-pape-de-la-toussaint

 

 

Thực tế hữu hình của Giáo Hội là tất cả những ai làm lợi cho danh Chúa Giêsu
Bài giáo lý ngày 29 tháng 10 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 30/10/2014 (Zenit.org)
"Thực tế hữu hình" của Giáo Hội, đó không phải chỉ là "Đức Giáo Hoàng, các giám mục, linh mục, các đấng thánh hỉến", mà là "các anh chị em đã chịu phép Rửa và đang sống tin, cậy và mến trên thế gian này", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh nhân buổi triều kiến chung ngày 29/10/2014 : "tất cả những ai đi theo Chúa Giêsu và nhân danh Người đến gần với những người bé mọn nhất và những người đang đau khổ".
Sáng thứ tư này, Đức Giáo Hoàng đã ban bài giáo lý thứ 12 của ngài dành nói về Giáo Hội : sau các bài "Sáng kiến của Thiên Chúa", "Sự thống thuộc Giáo Hội của các Kitô hữu", "Giáo Hội là giao ước mới và dân tộc mới", "Giáo Hội duy nhât, thánh thiện", "Tính từ mẫu của Giáo Hội", "Giáo Hội dạy dỗ lòng nhân từ", "Giáo Hội công giáo và tông truyền", "Các Ân Sủng" và "Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu", "Niềm hy vọng của Hội Thánh", "Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô", Đức Giáo Hoàng đã suy niệm về "thực tế hữu hình của Giáo Hội"..
Theo Đức Giáo Hoàng, "thực tế hữu hình của Giáo Hội không đo lường được, không thể hiểu thấu được tất cả sự toàn vẹn của nó : làm sao biết được tất cả những lợi ích Giáo Hội đã làm ? Biết bao công trình bác ái, biết bao chung thủy trong các gia đình, biết bao công việc để giáo dục con cái, để truyền lại đức tin, biết bao đau khổ nơi những người đau yếu đang dâng lên Chúa những đau đớn của họ…".
"Không thể đo lường được" : "thực tế hữu hình của Giáo Hội vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta, đi xa hơn cả những nỗ lực của chúng ta, đó là một thực tế huyền nhiệm bởi vì nó đến từ Thiên Chúa".
A.K.
Bài giáo lý ngày 29/10/2014
Thân chào quý anh chị em,
Trong các bài giáo lý trước, chúng ta đã có dịp nhấn mạnh trên bản chất thiêng liêng của Giáo Hội : nhiệm thể Chúa Kitô được xây dựng trong Chúa Thánh Linh. Nhưng, khi chúng ta nói đến Giáo Hội, chúng ta thường nghĩ ngay đến các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận của chúng ta, các cấu trúc nơi chúng ta có tập quán tụ họp, và đương nhiên là, nghĩ đến cơ chế và những nhân vật đang cầm cương nẩy mực, đang cai quản Giáo Hội. Điều này là thực tế hữu hình của Giáo Hội. Chúng ta hãy tự hỏi : đây có phải là hai chuyện khác nhau hay chỉ là một Giáo Hội duy nhất ? Và, nếu luôn chỉ là một Giáo Hội, làm thế nào để hiểu được quan hệ gắn liền hai thực tế hữu hình và thiêng liêng của Giáo Hội lại với nhau ?
1. Trước hết, khi chúng ta nói đến "thực tế hữu hình" của Giáo Hội, chúng ta không nên chỉ nghĩ đến Đức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục, các tu sĩ và tất cả những người đã thánh hiến. Thực tế hữu hình của Giáo Hội được hình thành bởi biết bao anh chị em đã chịu phép Rửa và đang sống tin, cậy và mến trên thế gian này. Nhưng mà, chúng ta đã bao lần nghe nói "Giáo Hội không làm chuyện này, Giáo Hội không làm chuyện kia…"  - "Nhưng bạn hãy nói cho tôi biết, Giáo Hội là những ai?" – "Là các linh mục, giám mục, Đức Giáo Hoàng…" - Giáo Hội là chúng ta tất cả, Giáo Hội của Chúa Giêsu, là tất cả những người đã chịu phép Rửa ! Giáo Hội được hình thành bởi tất cả những người đi theo Chúa Giêsu và, nhân danh Người, đến gần với những người bé mọn nhất và những người đang chịu đau khổ, để tìm cách mang đến cho họ một chút nâng đỡ, một chút an ủi và bình an. Giáo Hội là tất cả những ai làm theo lời phán dạy của Chúa. Như vậy, chúng ta hiểu rằng thực tế hữu hình của Giáo Hội là không thể đo lường được, rằng không thể biết được trong tất cả sự toàn vẹn của nó : làm sao biết được tất cả những lợi ích Giáo Hội đã làm ? Biết bao các công trình bác ái, biết bao chung thủy trong các gia đình, biết bao công việc để giáo dục con cái, để truyền lại đức tin, biết bao đau khổ nơi những người đau yếu đang dâng lên Chúa những đau đớn của họ… Mà thật là không thể đo lường được, thật là quá lớn ! Làm sao biết hết được những điều tuyệt vời mà Chúa Kitô, qua chúng ta, đã tác động được trong tấm lòng và trong cuộc sống của mỗi người ? Anh chị em có thấy không, dù là thực tế hữu hình của Giáo Hội cũng vượt ra khỏi sự kiểm soát của chúng ta, đi xa hơn cả những nỗ lực của chúng ta, đó là một thực tế huyền nhiệm vì nó đến từ Thiên Chúa.
2. Để hiểu được mối quan hệ, giữa thực tế hữu hình và thực tế thiêng liêng của Giáo Hội, không có con đường nào khác hơn là nhìn ngắm Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân thể của Người và từ Người mà Giáo Hội đã sinh ra, trong một cử chỉ tình yêu bất tận. Quả vậy, nhờ vào mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta nhận biết nơi Chúa Giêsu Kitô hai bản tính, một bản tính con người và một bản tính Thiên Chúa, hợp nhất một cách tuyệt diệu và bất khả phân trong một người. Giáo Hội cũng tương tự như thế. Và như trong Chúa Kitô, nơi nhân tính được gắn liền đầy đủ trong thiên tính và tình nguyện phục vụ thiên tính trong việc thực hiện công trình cứu chuộc, cũng xẩy ra như thế giữa thực tế hữu hình và thực tế thiêng liêng của Giáo Hội. Như vậy, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, nơi những gi không thấy được lại là quan trọng hơn những gi thấy được, và chỉ có những con mắt đức tin mới có khả năng nhận biết mà thôi (x. Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 8).
3. Nhưng trong trường hợp Giáo Hội, chúng ta phải tự hỏi : làm thế nào thực tế hữu hình của Giáo Hội phục vụ được thực tế thiêng liêng của mình ? Một lần nữa, chúng ta chỉ có thể hiểu được khi chúng ta nhìn ngắm Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân thể Người và Người là gương mẫu của Giáo Hội. Người là gương mẫu cho tất cả các Kitô hữu, gương mẫu của tất cả chúng ta. Khi nhìn ngắm Chúa Kitô, người ta không thể lầm lạc được. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, có kể rằng Chúa Giêsu, khi trở về lại Nazareth, là nơi Người sinh trưởng, đã vào một đền thờ và đã đọc một đoạn sách I-sa-i-a, trong đó chép rằng : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18-19). Đó là cách Chúa Kitô đã sử dụng nhân tính của Người - bởi vì người vẫn còn là môt con người - để loan báo và thực hiện kế hoạch Thiên Chúa chuộc tội và cứu độ - bởi vì Người là Thiên Chúa. Đối với Giáo Hội cũng xẩy ra như thế. Bằng thực tế hữu hình của mình, qua tất cả những gì có thể thấy được như các nhiệm tích và sự làm chứng của tất cả các Kitô hữu là chúng ta, Giáo Hội mỗi ngày được kêu gọi phải gần gũi với mọi người - bắt đầu từ người nghèo, đang đau khổ hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội - để cho họ luôn cảm thấy đang có ánh mắt đầy thương xót của Chúa Giêsu đoái nhìn tới mình.
Anh chị em thân mến, Cũng như Giáo Hội, chúng ta thường hay trải nghiệm sự yếu đuối và những giới hạn của chúng ta. Chúng ta đều có những thứ đó. Tất cả chúng ta đều  là những kẻ tội lỗi. Không ai trong chúng tă có thể nói : "tôi không phải là người tội lỗi". Ai trong chúng ta ở đây cảm thấy mình không phải là người tội lỗi, thì dơ tay lên. Tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi. Thật là chính đáng khi sự yếu đuối này, các giới hạn này, tất cả tội lỗi chúng ta, đã gây trong chúng ta một sự thống hối sâu đậm, nhất là khi chúng ta làm gương mù, gương xấu và chúng ta thể hiện rằng chúng ta đang gây ra một điều tai tiếng. Đã biết bao lần, chúng ta đã nghe nói trong khu phố rằng : "Người này luôn đi Nhà Thờ, nhưng lại hay nói xấu tất cả mọi người…". Đó không phải là một người Kitô hữu, đó là làm gương xấu : và đó là một tội lỗi : "Và, nếu đó là một người Kitô hữu nam hay nữ thì tôi sẽ trở thành vô thần". Sự làm chứng của chúng ta tức là khiến cho người ta hiểu rỏ, người "Kitô hữu" là như thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là kẻ mang đến dịp tội. Chúng ta hãy cầu xin ơn đức tin, để có thể hiểu được rằng, mặc dù những giới hạn và sự nghèo hèn của chúng ta, làm thế nào Chúa đã khiến chúng ta trở thành những khí cụ ân điển và "chỉ dấu" hữu hình tình yêu của Người đối với mọi người. Phải ! Chúng ta có thể trở thành duyên cớ của tội lỗi, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành duyên cớ của chứng ngôn, bằng cách nói lên qua cuộc sống của mình những điều Chúa Giêsu muốn nơi chúng ta.
Bản dịch tiếng pháp của Zenit
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(30 octobre 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/la-realite-visible-de-l-eglise-c-est-tous-ceux-qui-font-le-bien-au-nom-de-jesus

 

"Tình yêu là thước đo đức tin"
Kinh Truyền Tin ngày 26/10/2014 (toàn văn)

 
Rôma – 26/10/2014
(Zenit.org)
"Tình yêu là thước đo của đức tin", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố và mời gọi "đừng tách biệt đời sống tôn giáo, đời sống đức tin, với sự phục vụ anh em…, [hay] cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa trong các Bí Tích, với việc lắng nghe tha nhân", trong giờ Kinh Truyền Tin ngày 26/10/2014 : "Đức tin của tôi chính là cách tôi yêu".
Đức Giáo Hoàng đã chủ sự giờ kinh Đức Mẹ từ cửa sổ văn phòng của ngài trông ra quảng trường thánh Phêrô, trưa ngày chúa nhật, trước hàng chục ngàn người. Ngài đã suy ngẫm về hai giới răn của "tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân", "bất phân ly và mang tính bổ sung".
"Không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến anh em và không thể yêu mến anh em mà không yêu mến Thiên Chúa", ngài nhấn mạnh : đó là "lề luật tình yêu", "lệ luật lưỡng diện mà chỉ có một khuôn mặt" vì "dung nhan của Thiên Chúa phản ánh trên khuôn mặt của mỗi người anh em".
Lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Phúc Âm ngày hôm nay nhắc chúng ta rằng Lề Luật Thiên Chúa tóm lại trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Tin Mừng theo thánh Mátthêu kể rằng vài người pharisêu đồng ý với nhau thử thách Chúa Giêsu (x. Mt 22, 34-35). Một trong bọn họ, tinh thông luật, đặt câu hỏi này với Người : "Thưa Thầy, trong sách Luật Mêsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?" (Mt, 22, 36). Chúa Giêsu trích dẫn sách Đệ Nhị Luật và trả lời : "Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn  và hết trí khôn người. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất" (Mt 22, "7-38). Và Người đã có thể ngưng ở đó. Nhưng Chúa Giêsu thêm điều khác không được ngươi thông luật đặt ra.
Người đã phán : "Và điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy : Ngươi phải yêu người thân cận như yêu chính mình" (Mt 22, 39). Chúa Giêsu cũng không đặt ra điều răn thứ hai, mà Người đã lấy từ trong Sách Lévi. Sự mới mẻ là ở chỗ kết hợp hai điều răn này lại với nhau – tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân – và mạc khải rằng hai điều này không tách rời nhau được và bổ sung cho nhau, đó là hai mặt của một tấm huy chương. Không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến tha nhân và không thể yêu mến tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã để lại cho chúng ta một lời chú giải rất đẹp về chủ đề này trong phần đầu của sứ điệp Deus caritas est (số 16-18).
Quả thực, dấu chỉ nhãn tiền qua đó người Kitô hữu có thể làm chứng tình yêu Thiên Chúa trên thế gian và cho người khác, cho gia đình mình, đó chính là tình yêu đối với anh em. Giới răn tình yêu Thiên Chúa và tha nhân là điều răn thứ nhất không phải bởi vì nó đứng đầu danh sách các giới răn. Chúa Giêsu không đặt nó lên đỉnh, mà ở chính giữa, bởi vì nó là trung tâm từ đó tất cả xuất phát và tất cả hướng về và là chỗ dựa.
Ngay từ trong Cựu Ước, sự đòi hỏi nên thánh, theo hình ảnh của Thiên Chúa vốn là thánh, cũng bao gồm bổn phận săn sóc những người yếu đuối nhất như khách lạ, cô nhi, quả phụ (x. Xh 22, 20-26). Chúa Giêsu đã hoàn tất lề luật giao ước này, Người đã kết hợp nơi chính Người, trong da thịt Người, thiên tính và nhân tính, trong một mầu nhiệm tình yêu duy nhất.
Từ nay, dưới ánh sáng lời phán này của Chúa Giêsu, tình yêu là thước đo của đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo, đời sống đức tin, với sự phục vụ anh em, những người anh em cụ thể này mà chúng ta thường gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt cầu nguyện, sự gặp gỡ Thiên Chúa trong các Bí Tích, với việc lắng nghe tha nhân, với sự gần gũi đời sống của họ, đặc biệt với các thương tích của họ. Anh chị em hãy nhớ lấy điều này : tình yêu là thước đo đức tin.  Anh chị em yêu thương được bao nhiêu ? Mỗi người trong chúng ta hãy trả lời. Đức tin của bạn thế nào ? Đức Tin của tôi chính là cách tôi yêu thương. Và đức tin là linh hồn của tình yêu.
Giữa chốn rừng rậm các giới răn và lề luật - những luật sĩ thời xưa và ngày nay -, Đức Giêsu đã mở ra cho thấy hai khuôn mặt : Khuôn mặt Chúa Cha và khuôn mặt anh em. Người không ban cho chúng ta hai công thức, hai giới luật : vì đó không phải là công thức hay giới luật; Người ban cho chúng ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn chỉ là một khuôn mặt, dung nhan của Thiên Chúa phản ánh trên biết bao khuôn mặt khác, bởi vi trên khuôn mặt của mỗi người anh em, nhất là những người bé mọn, yếu đuối nhất, không được bảo về và đang cần sự giúp đỡ, đã có sự hiện diện của dung nhan Thiên Chúa. Và chúng ta phải tự hỏi chính mình, khi gặp gỡ một trong những người anh em này, thì liệu chúng ta có khả năng nhận ra nơi người đó, dung nhan của Thiên Chúa không ? Chúngg ta có khả năng đó không ?
Bằng cách đó, Chúa Giêsu hiến tặng cho mọi con người tiêu chuẩn nền tảng để xây dựng cuộc đời mình trên đó. Nhưng nhất là Người đã ban cho chúng ta Chúa Thánh Linh, là Đấng giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân như yêu mến chính Người, với một tấm lòng tự do và đại lượng. Nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, Mẹ chúng ta, chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận ơn phúc tình yêu này, để luôn đi theo giới luật hai khuôn mặt này, vốn chỉ là một dung nhan : giới luật tình yêu.
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến,
Hôm qua, tại Sao Paulo thuộc Brasil, Mẹ Assunta Marchetti, sinh trưởng tại Ý, đồng sáng lập viên Dòng Nữ Tu Truyền Giáo Thánh Charles Borromée – đã được tuyên phong  chân phước. Đó là một nữ tu gương mẫu phục vụ các cô nhi, các di dân từ Ý; bà đã thấy Chúa Giêsu hiện diện trong những người nghèo khổ, những kẻ côi cút, bệnh hoạn, di dân. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì vị nữ tu này, tấm gương của tinh thần truyền giáo không mệt mỏi và can đảm tận tụy phục vụ đức ái. Đó là lời kêu gọi và nhất là sự xác nhận những điều chúng ta vừa nói trên đây, về sự cần thiết đi tìm dung nhan Thiên Chúa nơi anh chị em đang trong cơn túng quẫn.
Tôi thân ái chào mừng tất cả các khách hành hương đến từ Ý và các nước khác, bắt đầu bằng các tín hữu của giáo xứ Đức Bà Đại Dương (Devoti della Madonna del Mare), của Bova Marina. Tôi hân hoan đón chào các tín hữu của Lugana en Sirmione, Usini, Portobuffole, Arteselle, Latina cà Guidonia; cũng như những người đến từ Lausanne (Thụy Sĩ) và Marseille (Pháp). Tôi xin gửi một ý nghĩ đặc biệt tới cộng đoàn người Pêru ở Rôma, đang hiện diện với hình ảnh – mà tôi đang nhìn thấy ! – Chúa làm phép lạ (Señor de los Milagros).
Tôi cũng chào mừng các khách hành hương của Schönstatt : tôi đang nhìn thấy hình Đức Mẹ.
Tôi xin cảm ơn và thân chào tất cả anh chị em.
Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi, xin đừng quên. Tôi chúc tất cả, một ngày chúa nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(26 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-amour-est-la-mesure-de-la-foi

 

Một con tim biết nói cảm ơn là một con tim hạnh phúc
Trái lại là một con tim ghen tuông – Bài giáo lý ngày 22 tháng 10 năm 2014 

Rôma – 22/10/2014 (Zenit.org)
"Một trái tim biết nói cảm ơn là một con tim tốt lành, một con tim cao quý, một con tim hạnh phúc", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh trong ngày 22/10/2014 này. Trái lại, "một con tim ghen tuông là một con tim chua chát, một con tim, thay vì đầy máu, thì lại đầy giấm".
Để chiến đấu với lòng ghen tuông, cần phải "đề cao các cống hiến và phẩm chất của các anh em mình trong các cộng đoàn của chúng ta. Và khi tôi cảm thấy lòng ghen tuông dâng lên, tôi phải thưa với Chúa : "Cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cái đó cho người khác", ngài giải thích trong buổi triều kiến chung trên quảng trường thánh Phêrô.
Sáng thứ tư này,Đức Giáo Hoàng đã ban bài giáo lý thứ 11 dành cho Giáo Hội sau các bài "Sáng kiến của Thiên Chúa", "Sự thống thuộc Giáo Hội của các Kitô hữu", "Giáo Hội là giao ước mới và dân tộc mới", "Giáo Hội duy nhât, thánh thiện", "Tính từ mẫu của Giáo Hội", "Giáo Hội dạy dỗ lòng nhân từ", "Giáo Hội công giáo và tông truyền", "Các Ân Sủng" và "Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu", "Niềm hy vọng của Hội Thánh", Đức Giáo Hoàng đã suy niệm về "Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô".
Trong Giáo Hội "Nhiệm Thể Chúa Kitô", Chúa Thánh Linh tạo ra "một sự hiệp thông tình yêu sâu đậm" giữa các thành viên "hiệp nhất, như một gia đình, và như dấu chỉ nhãn tiền và tốt đẹp của tình yêu Chúa Kitô", Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, và mời gọi hãy "luôn coi mình như các thành phần của nhau, sống động và dâng hiến chúng ta cho tất cả mọi người"
A.K.
Bài giáo lý ngày 22 tháng 10 năm 2014
Thân chào quý anh chị em,
Khi người ta muốn nhấn mạnh đến sự kết hợp chặt chẽ của các phần tử với nhau trong một thực tế để làm thành một vật thể, người ta hay dùng hình ảnh thân thể. Từ thời thánh Phaolô tông đồ, cách so sánh này đã được áp dụng cho Giáo Hội và nó đã được công nhận như một nét đặc trưng sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất. Này nay, chúng ta muốn tự hỏi : "Giáo Hội lấy gì để hình thành một thân thể ? Và tại sao người ta định nghĩa Giáo Hội như "nhiệm thể của Chúa Kitô ?"
Sách Ê-dê-kien đưa ra sự mô tả một ảo ảnh có đôi chút đặc biệt, ấn tượng nhưng có khả năng gợi lên sự tin tưởng và niềm hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa chỉ cho ngôn sứ một cánh đồng bị bao phủ bởi đầy xương cốt, tất cả đều rời rạc và khô đét. Đó là một cảnh tượng hiu quạnh… Anh chị em hãy tưởng tượng một thung lũng đầy xương khô. Thiên Chúa đã truyền ông cầu khẩn Thần Khí xuống cho họ. Và lúc đó, xương cốt bắt đầu động đậy và xích lại gần nhau và ăn khớp lại với nhau, rồi gân cốt, rồi da thịt bao phủ lên và như thế, thân xác đã hình thanh, toàn bộ và tràn đầy sự sống (x. Êd 37, 1-14). Như thế, chính là Giáo Hội đó ! Tôi nhấn mạnh, ngày hôm nay, về nhà, anh chị em hãy lấy Thánh Kinh, chương 37 sách Ê-dê-kien, anh chị em đừng quên đó, hãy đọc đoạn này, rất là hay. Giáo Hội chính là thế đó, chính là một tác phẩm, tác phẩm của Thần Khí, là Đấng đã gieo rắc nơi mỗi người sự sống mới của Chúa Phục Sinh và đặt để chúng ta, người này ở cạnh người kia, người này phục vụ người kia để nâng đỡ nhau, và như thế, làm cho chúng ta trở nên một thân xác, được xây dựng trong sự hiệp thông và trong tình yêu mến.
Nhưng Giáo Hội không phải là một thể xác được xây dựng trong Thần Khí : Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô ! Và đây không chỉ là một cách nói, mà chúng ta thực sự là như thế ! Đó là quà tặng lớn lao nhất mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chúng ta Rửa Tội. Trong Phép Rửa, quả thật, chúng ta thuộc về Chúa Kitô là Đấng đón nhận chúng ta giữa mầu nhiệm Thánh Giá, mầu nhiệm tối thượng của tình yêu Người đối với chúng ta, để làm cho chúng ta sau đó được sống lại với Người, như những tạo vật mới. Đó : chính như thế mà Giáo Hội sinh ra và chính như thế mà Giáo Hội nhận biết mình như nhiệm thể của Chúa Kitô. Phép Rửa đúng là một sự tái sinh đã sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở thành những thành phần của Người, và kết hợp chặt chẽ chúng ta lại với nhau, như các bộ phận của một thân thể, mà Người là đầu (x. Rm 12,5; 1 Cr 12, 12-13).
Điều toát lên lúc đó, chính là một sự hiệp thông sâu xa của tình yêu. Trên ý nghĩa này, thật là mang tính soi sáng khi nghe thánh Phaolô khuyên các ông chồng "phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình" và khẳng định rằng "Đó là điều Chúa Kitô đã làm đối với Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thê của Người" (Ep 5, 29-30). Thật là đẹp khi chúng ta thường xuyên nhớ lại chúng ta là gì, Chúa đã làm những gì cho chúng ta : chúng ta là thân thể của Người, thân thể đó không có gì và không có ai có thể lấy đi của Người được, thân thể mà Người đã bao bọc bởi sự say mê và tình yêu thương của Người, đúng như một người chồng với vợ của mình. Nhưng ý nghĩ đó phải dấy lên trong chúng ta lòng ước muốn tương ứng với Chúa Giêsu và chia sẻ tình yêu của Người giữa chúng ta, như những bộ phận sống động của chính thân thể của Người. Ở thời thánh Phaolo, cộng đoàn Cô-rin-tô đã có nhiều khó khăn để sống như thế, và họ đã trải nghiệm, cũng như chúng ta cũng nhiều khi, những chia rẽ, những ganh tỵ, những hiểu lầm và sự thải loại nhau. Tất cả điều này không tốt bởi vì, thay vì xây dựng và làm cho Hội Thánh lớn lên như thân thể Chúa Kitô, chúng ta làm Hội Thánh đổ vỡ ở nhiều nơi, chúng ta làm Hội Thánh cụt tay, cụt chân. Và điều này đang còn diễn ra vào thời đại này của chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ đến những gì xẩy ra trong các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta, trong một số giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến tất cả những sự chia rẽ trong các khu phố của chúng ta, tất cả những ganh tỵ, những châm biếm, tất cả những hiểu lầm và những loại trừ. Và điều này gây ra cái gì ? Điều này phá hoại chúng ta với nhau. Đó là khởi sự chiến tranh. Chiến tranh không khởi sự trên bãi chiến trường : chiến tranh, các cuộc chiến tranh bắt đầu từ trong lòng người, bởi những hiểu lầm, những chia rẽ, những ganh tỵ, bởi sự đấu tranh chống người khác. Cộng đoàn Cô-rin-tô đã như thế, đó là các nhà vô địch trên lãnh vực này ! Thánh Phaolô tông đồ đã gửi cho họ một số lời khuyên giải cụ thể và có giá trị cả với chúng ta bây giờ : đừng ghên tuông, mà hãy đề cao các cống hiến và phẩm chất của các anh em mình trong các cộng đoàn của chúng ta. Những ghen tỵ là : "Có người kia mới mua xe" và, tôi liền cảm thấy ghen tỵ: "người nào khác nữa vừa trúng sổ số" thể là lại ghen tỵ; và "người kia, làm gì cũng thành công", và rồi cũng lại ghen tỵ ! Tất cả những điều này phá hủy, tác hại, không nên ! Chính bởi vì như thế mà lòng ghen tỵ phình lên và làm đầy trái tim mình. Một con tim ghen tuông là một con tim chua chát, một con tim, thay vì đầy máu, thì lại đầy giấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phá hoại cộng đoàn. Nhưng như thế thì tôi phải làm gì ? Đề cao các cống hiến và phẩm chất của người khác; của anh em chúng ta trong cộng đoàn. Và khi tôi cảm thấy đang dâng lên trong mình lòng ghen tuông, bởi vì điều này xẩy tới với tất cả mọi người, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lội, tôi phải thưa với Chúa : "Cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cái đó cho người khác". Đánh giá cao các đức tính, đến gần và chia sẻ những đau khổ của những người bần cùng nhất; bầy tỏ sự biết ơn của mình với tất cả mọi người. Một trái tim biết nói cảm ơn là một con tim tốt lành, một con tim cao quý, một con tim hạnh phúc. Tôi xin hỏi anh chị em một câu : tất cả chúng ta có luôn biết nói cảm ơn không ? Không phải lúc nào cũng được như vậy đâu, bởi vì ganh tỵ, ghen tuông kềm hãm chúng ta lại đôi chút. Và sau cùng, lời khuyên của thánh Phaolô tông đồng đối với cộng đoàn Cô-rin-tô và chúng ta cũng phải nhắc lại cho nhau : đừng coi ai lớn hơn những người khác. Có biết bao người nghĩ rằng mình hơn người khác ! Chúng ta cũng vậy, rất nhiều khi, chúng ta nói, như người pharisêu của dụ ngôn ; "Con tạ ơn Chúa, bởi vì con không như tên kia, con hơn hắn". Điều này không đẹp, đừng bao giờ nói như thế. Và khi bạn sắp làm như vậy, bạn hãy nhớ đến tội lỗi của bạn, đến những tội mà không ai biết, và bạn hãy sấp mình xuống trước mặt Chúa và thưa rằng : "Lạy Chúa, Chúa biết ai là lớn, con xin im miệng". Và điều này tốt cho chúng ta. Và luôn luôn, trong tình bác ái, coi nhau nhu các bộ phận, sống và hiến tặng cho tất cả mọi người (x. 1 Cr 12-14)
Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ê-dê-kien và như thánh Phaolô tông đồng, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Thần Khí, để cho ân điển và các đặc sủng của Người giúp chúng ta thực sự sống như thân thể của Chúa Kitô, hợp nhất, như một gia đình, nhưng một gia đình vốn là thân thể Chúa Kitô, và như dấu chỉ nhãn tiền và tốt đẹp của tình yêu Chúa Kitô.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(22 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/un-coeur-qui-sait-dire-merci-est-un-coeur-heureux

 

Thông điệp của Thượng Hội Đồng Giám Mục
gửi các gia đình Kitô giáo

Toàn văn - Bản dịch tiếng Pháp chính thức  

Rôma – 18/10/2014 (Zenit.orgThượng Hội Đồng Giám Mục

HỘI NGHI KHOÁNG ĐẠI THƯỢNG HỘI ĐỒNG CÁC GIÁM MỤC KỲ III
THÔNG ĐIỆP


Chúng tôi, các Nghị Phụ hội họp tại Rôma xung quanh Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Hội Nghị khoáng đại ngoại thường của Thượng Hội Đồng Giám Mục, chúng tôi gửi đến tất cả các gia đình trên các châu lục khác nhau, đặc biệt những gia đình đi theo Đức Kitô, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi thể hiện lòng ngưỡng mộ và lòng biết ơn của chúng tôi vì chứng cứ hàng ngày mà anh chị em đã cống hiến cho chúng tôi, cũng như cho thế giới, bằng lòng trung thành, đức tin, đức cậy và đức ái của anh chị em.
Chúng tôi cũng vậy, là những mục tử của Giáo Hội, chúng tôi được sinh ra và lớn lên trong các gia đình với lịch sử và những thăng trầm đủ loại. Với tư cách linh mục và giám mục, chúng tôi đã gặp và đã trải nghiệm bên cạnh các gia đình đã kể với chúng tôi bằng lời và bộc lộ bằng hành động tất cả một chuỗi những tuyệt vời cũng như những khó khăn.
Việc chuẩn bị của hội nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục này, từ các câu trả lời danh sách các câu hỏi gửi cho các Giáo Hội trên toàn thế giới, đã giúp cho chúng tôi lắng nghe được nhiều trải nghiệm gia đình. Cuộc đối thoại của chúng tôi trong những ngày công nghị cũng làm phong phú cho chúng tôi lẫn nhau, giúp chúng tôi nhìn ra thực tế sống động và phức tạp trong đó các gia đình đang phải sinh hoạt.
Chúng tôi xin đề nghị với anh chị em lời phán dạy này của Chúa Kitô : "Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thi Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh 3, 20). Cũng như Người đã làm trong những chuyến đi trên các nẻo đường Đất Thánh, đi vào các nhà trong làng, ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục đi qua đường phố của các thành thị chúng ta. Trong gia đình, các anh chị em đã trải nghiệm bóng tối và ánh sáng, những thách thức kích động, nhưng đôi khi cũng là những thử thách bi thảm. Bóng tối dầy đặc hơn, đến độ trở thành màn đen, khi mà điều ác và tội lỗi len lỏi được vào ngay trung tâm gia đình.
Trước hết, có một thách thức to lớn về sự chung thủy trong tình yêu vợ chồng. Sự suy yếu của đức tin và các giá trị, chủ nghĩa cá nhân, sự nghèo nàn các quan hệ, áp lực của một sự vội vã cản trở suy nghĩ cũng để dấu ấn trên đời sống gia đình. Người ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng vợ chồng, thường được đối đầu bằng cách đập đổ, không có can đảm của sự nhẫn nại, của sự đặt lại vấn đề, của sự tha thứ cho nhau, của sự hòa giải và cả sự hy sinh. Những thất bại này, như thế là nguồn gốc của những quan hệ mới, những cặp đôi mới, những sự kết hợp mới và những hôn nhân mới, tạo ra những tình trạng phức tạp và có vấn đề về mặt lựa chọn đời sống Kitô giáo.
Trong những thách thức đó, chúng tôi muốn nhắc tới những thử thách của cuộc sống. Chúng ta hãy nghĩ đến sự đau đớn có thể xẩy đến khi một đứa nhỏ bị khuyết tật, khi có một căn bệnh trầm trọng, hay một sự thoái hóa thần kinh tuổi già, hay cái chết của một người thân yêu. Sự chung thủy rộng lượng của bao gia đình phải sống trong những thử thách với lòng can đảm, đức tin và tình yêu là đáng ngưỡng mộ, khi các gia đình này không coi đó là cái gì bị cướp đi hay bị bắt buộc, mà coi đó như cái gì được ban xuống cho họ và rồi họ hiến tặng lại, khi nhận biết nơi tất cả mọi người bị thử thách, chính là Đức Kitô đang chịu đau đớn.
Chúng tôi nghĩ đến những khó khăn kinh tế gây ra bởi những hệ thống đồi bại, bởi "chủ nghĩa tôn thờ tiền bạc" và bởi "tính độc tài của nền kinh tế bịt mặt và không có mục tiêu nhân bản rõ rệt" (Evangelii gaudium, 55) sỉ nhục phẩm giá con người. Chúng tôi nghĩ đến những người cha, người mẹ không có công ăn việc làm, bất lực trước những nhu cầu sơ đẳng nhất của gia đình mình; và đến những người trẻ đang đứng trước những ngày tháng vô công rồi nghề và không có hy vọng, làm mồi cho cho những sa đọa ma túy và tội ác.
Sau chót, chúng tôi nghĩ đến đám đông các gia đình nghèo khó, và những gia đình đang bám víu vào một con thuyền để đạt được những phương tiện sống còn, đến những gia đình tỵ nạn đang lang thang vô vọng trong sa mạc, đến những gia đình đang bị bách hại chỉ vì đức tin và những giá trị tinh thần và nhân bản, đến những gia đình bị hành hạ bởi chiến tranh và đàn áp. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ đang chịu đựng bạo lực và lạm dụng, nạn buôn bán người, đến những trẻ em và những nạn nhân trẻ bị lạm dụng, kể cả bởi những người có bổn phận chăm sóc họ và nuôi họ lớn lên trong tin tưởng, đến những thành viên của bao gia đình bị nhục nhã và trong cơn khó khăn. "Nền văn hóa thoải mái làm cho chúng ta tê dại đi và […] tất cả những cuộc đời đã bị gẫy đổ bởi thiếu các phương tiện, đối với chúng ta, dường như chỉ là một màn kịch không gây chấn động gì cho chúng ta cả (Evangeli gaudium). Chúng tôi kêu gọi các chính quyền và các tổ chức quốc tế hãy phát huy các quyền của gia đình nhằm vào công ích.
Đức Kitô đã muốn rằng Giáo Hội của Người là một ngôi nhà với các cánh cửa luôn rộng mở và sẵn sàng đón tiếp, không thải loại bất cứ người nào. Chúng tôi tri ân các vị mục tử, các tín hữu và các cộng đoàn sẵn sàng đồng hành và gánh vác những rách nát nội bộ và xã hội của các cặp vợ chồng và các gia đình.
***
Tuy nhiên, cũng vẫn còn ánh đèn le lói buổi chiều sau những khung cửa sổ nhà người ta trong thành phố, trong những nơi cư ngụ khiêm tốn ở những vùng ngoại ô hay trong các làng mạc và cả trong những lán trại : ánh đèn này chiếu sáng và sưởi ấm thể xác và tâm hồn. Ánh sáng đó, trong những thăng trầm cuộc đời hôn nhân của vợ chồng, cháy lên nhờ một sự gặp gỡ : đó là một quà tặng, một ân điển được bầy tỏ - như sách Sáng Thế đã nói (2,18) – khi hai khuôn mặt gặp lại "trước mặt" nhau, như một "sự giúp đỡ tương ứng", nghĩa là vừa giống nhau, vừa bổ túc cho nhau. Tình yêu của người đàn ông và người đàn bà dậy cho chúng ta rằng mỗi người trong hai người đều cần đến nhau để thành chính mình, mỗi người vẫn khác nhau trong căn tính đang mở ra và tỏ ra trong sự hiến tặng cho nhau. Đó chính là cách biểu lộ gợi ý của người phụ nữ trong sách Diễm Ca : "Người tôi yêu thuộc trọn về tôi, và tôi, thuộc trọn về chàng […] Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn" (Dc 2, 16; 6, 3).
Để cho cuộc gặp gỡ này được đích thực, hành trình bắt đầu với thời gian đính hôn, thời gian chờ đợi và chuẩn bị. nó cập nhật đầy đủ trong bí tích hôn phối nơi Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, với sự hiện diện và ân điển của Người.  Con đường như thế, đi qua tình dục, lòng nhân lành, vẻ đẹp kéo dài cả sau sự cường tráng và cái non trẻ của tuổi thanh xuân. Do bản chất của nó, tình yêu hướng tới phù hợp với vĩnh cửu, đến độ hiến mạng sống mình cho người mình yêu (x. Ga 15, 13). Dưới ánh sáng này, tình yêu vợ chồng, duy nhất và bất khả phân ly, kiên trì mặc dù nhiều khó khăn của những giới hạn con người; đó là một trong những phép lạ tốt đẹp, dù rằng nó cũng là cái chung nhất.
Tình yêu này trải ra qua khả năng sinh sản và truyền sinh vốn không chỉ là sinh con đẻ cái mà còn là sự hiến tặng sự sống của Chúa trong Phép Rửa, trong giáo dục và dạy giáo lý cho trẻ em. Đây cũng là khả năng hiến tặng sự sống, tình yêu thương và các giá trị. Trải nghiệm này cũng có thể có được, kể cả đối với những người không thể có con cái. Các gia đình trải nghiệm cuộc sống tươi sáng này trở thành cho tất cả mọi người một chứng cứ, đặc biệt cho người trẻ.
Trên hành trình này, vốn đôi khi coi như một đoạn đường mòn vất vả với những khó khăn và những vấp ngã, người ta luôn tìm thấy sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa. Gia đình đã trải nghiệm điều này trong tình yêu thương lẫn nhau và trong sự đối thoại giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình cũng trải nghiệm bằng cách cùng nhau chung nghe Lời Thiên Chúa và chia sẽ cầu nguyện chung : một ốc đảo tinh thần nhỏ bé cần được sắp đặt mỗi ngày vào một lúc nào đó. Cũng có sự dấn thân mỗi ngày cho việc giáo dục đức tin, giáo dục về cái đẹp của cuộc đời Phúc Âm và thánh thiện. Nhiệm vụ này thường hay được chia sẻ và tiến hành, với nhiều tình thương và lòng tận tụy, bởi các bậc ông bà trong gia đình. Như thế, gia đình xuất hiện giống như một Giáo Hội đích thực tại gia, được mở ra với cái gia đình của các gia đình là cộng đoàn Hội Thánh. Như thế, các cặp vợ chồng Kitô giáo được kêu gọi trở thành những bậc thầy trong đức tin và trong tình yêu bên các cặp vợ chồng trẻ.
Sau đó, có một thành ngữ khác của sự hiệp thông huynh đệ, thành ngữ của bác ái, của hiến tặng, của sự gần gũi những người bị bỏ rơi, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, những người nghèo khó, cô đơn, bệnh hoạn, những người khách lạ, những gia đình đang cơn khủng hoảng, còn giữ trong ký ức lời phán dạy của Chúa : "Cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20,35). Đây là một ơn chia sẻ các của cải, ơn hiện diện, ơn tình yêu và lòng thương xót và cũng là một chứng cứ cho sự thật, cho ánh sáng và cho ý nghĩa của cuộc đời.
Đỉnh cao đón nhận và tóm tắt tất cả những liên hệ của sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân là Thánh Lễ ngày chúa nhật, khi, với tất cả Hội Thánh, gia đình ngồi vào bàn tiệc của Chúa. Chính Người đã hiến tặng mạng sống Người cho tất cả chúng ta, những khách hành hương của lịch sử trên đường dẫn đến sự gặp gỡ sau cùng khi "Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người" (Cl 3, 11). Để được vậy, trong đoạn đầu hành trình công nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy nghĩ về sự đồng hành mục vụ và về vấn đề những người ly dị tái hôn tiếp cận các bí tích.
Chúng tôi, các Nghị Phụ, chúng tôi xin anh chị em hãy cùng đi với chúng tôi đến kỳ công nghị tới.
Mong rằng sự hiện diện của Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và thánh Giuse hợp nhất trong ngôi nhà khiêm nhượng của các Đấng, ở cùng anh chị em. Cùng nhau, chúng ta hãy hướng về Thánh Gia Nazareth để dâng lên Cha chung của tất cả mọi người lời cầu khẩn của chúng ta cho các gia đình trên trái đất.
Lạy Cha, xin Cha ban cho tất cả các gia đình có được các cặp vợ chồng can đảm và tràn đầy khôn ngoan, để họ là gốc rễ của một gia đình tự do và hợp nhất.
Lạy Cha, xin Cha ban cho các bậc cha mẹ có một ngôi nhà để sống trong bình an với gia đình của họ.
Lạy Cha, xin Cha ban cho các con cái trở thành những dấu chỉ của lòng tin tưởng và hy vọng, và cho người trẻ lòng can đảm để cam kết lâu bền và chung thủy.
Lạy Cha, xin Cha ban cho tất cả mọi người có thể kiếm được miếng ăn từ chính hai bàn tay mình, được hưởng sự bình an tâm hồn và giữ cho ngọn đuốc đức tin luôn cháy sáng kể cả trong những lúc tối tăm.
Lạy Cha, xin Cha cho chúng con được thấy một Hội Thánh nở hoa, luôn luôn trung thành và khả tín, một thị xã công bình và nhân bản, một thế giới yêu chuộng sự thật, công lý và lòng thương xót.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(18 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/message-du-synode-aux-familles-chretiennes

 

Giáo Hội soi sáng cho nhân loại con đường dẫn tới Thiên Chúa
Bài giáo lý ngày 15 tháng 10 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 15/10/2014 (Zenit.org)
"Giáo Hội có bổn phận giữ cho ngọn đèn hy vọng sáng tỏ và được thấy rõ" để "chiếu sáng cho toàn thể nhân loại con đường dẫn đến gặp được Thánh Nhan nhân từ của Thiên Chúa", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích nhân buổi triều kiến chung ngày 15/10/2014.
Đức Giáo Hoàng đã đọc bài giáo lý thứ 10 dành nói về Giáo Hội : sau các bài "Sáng kiến của Thiên Chúa", "Sự thống thuộc Giáo Hội của các Kitô hữu", "Giáo Hội là giao ước mới và dân tộc mới", "Giáo Hội duy nhât, thánh thiện", "Tính từ mẫu của Giáo Hội", "Giáo Hội dạy dỗ lòng nhân từ", "Giáo Hội công giáo và tông truyền", "Các Ân Sủng" và "Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu", Đức Giáo Hoàng đã suy niệm về "Niềm hy vọng của Hội Thánh".
Cũng như "thành Giêrusalem mới", Giáo Hội được kêu gọi "trở thành một thành phố, biểu tượng tốt nhất của sự chung sống và các quan hệ con người", quy tụ "tất cả các quốc gia và các dân tộc" dưới "túp lều của Thiên Chúa", ngài đã tuyên bố trước hàng chục ngàn người tập trung trên quảng trường thánh Phêrô.
"Niềm hy vọng Kitô giáo không chỉ là một mong muốn, một ước ao, cũng không phải là lạc quan", Đức Giáo Hoàng đã xác định : "đối với một Kitô hữu, hy vọng là một chờ đợi sự viên mãn cuối cùng và chung quyết mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa" và "và của Đấng sẽ phải đến : Chúa Kitô".
"Giáo Hội, chính là dân của Thiên Chúa, đi theo Chúa Giêsu và chuẩn bị ngày này qua ngày khác để được gặp Người, như một một người vợ đến với chồng mình" ngài nói thêm.
A.K.
Bài giáo lý ngày 15/10/2014
Thân chào quý anh chị em !
Tron thời gian này, chúng ta đã nói về Giáo Hội, về Mẹ Hội Thánh có tôn ti, dân Thiên Chúa lữ hành. Hôm nay, chúng ta muốn tự hỏi : cuối cùng, dân Thiên Chúa sẽ ra sao ? Mỗi người chúng ta sẽ ra sao ? Chúng ta phải chờ đợi cái gì ? Thánh Phaolô tông đồ đã khuyến khích các tín hữu của cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vì họ cũng đã đặt ra những câu hỏi này, và sau lý luận của ngài, họ đã nói những lời sau đây được kể là những lời hay nhất trong Tân Ước : "Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi" (1 Tx 4, 17). Đó là những lời đơn sơ, nhưng đậm đặc hy vọng !  Thật là biểu tượng khi thấy trong sách Khải Huyền, lấy lại thiên hứng của các ngôn sứ, thánh Gioan đã mô tả cái tầm vóc sau cùng, chung quyết, với những lời lẽ như sau : "Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang" (Kh 21, 2). Đó là cái gì chờ đợi chúng ta ! Và như thế, đó là Giáo Hội : chính là dân của Thiên Chúa đi theo Chúa Giêsu và chuẩn bị ngày này qua ngày khác để được gặp Người, như người vợ đến với chồng mình. Và đây không chỉ là một cách nói : chính là một đám cưới đích thực ! Phải, bởi vì Đức Kitô, khi xuống thế làm người như chúng ta, đã cho phép chúng ta ở cùng Người, bằng cái chết và sự sống lại của Người; Người đã thực sự cưới chúng ta và biến chúng ta, như dân chúng, thành tân nương chủa Người. Và điều này không gì khác hơn là sự thực hiện kế hoạch hiệp thông và tình yêu mà Thiên Chúa đã thắt dệt trong suốt lịch sử, lịch sử của dân Thiên Chúa và cũng là lịch sử riêng tư của mỗi người trong chúng ta. Chính Chúa đã làm điều này.
Tuy nhiên, có một yếu tố khác làm yên lòng chúng ta hơn nữa và mở lòng chúng ta : thánh Gioan nói rằng Giáo Hội, bạn thanh sạch của Chúa Kitô, "thành Giẹrusalem mới" đã xuất hiện. Điều này có nghĩa rằng Giáo Hội không những là người vợ mà Giáo Hội còn được kêu gọi trở nên một thành phố, biểu tượng tốt nhất của sự chung sống và các quan hệ con người. Như vậy, thật là đẹp biết bao khi có thể chiêm ngắm, theo một hình ảnh cũng rất gợi ý của sách Khải Huyền, tất cả các quốc gia và các dân tộc tập họp nhau trong thành phố này, như dưới một túp lều, "lều của Thiên Chúa" (x. Kh 21, 3) ! Và trong khung cảnh vinh quang này, không còn cô lập, không còn bóc lột và phân biệt gì nữa – dù là xã hội, chủng tộc hay tôn giáo – nhưng tất cả chúng ta sẽ là một trong Chúa Kitô.
Trước cảnh tượng mới lạ và tuyệt vời này, tâm hồn chúng ta không thể không cảm thấy được tôi luyện trong hy vọng. Anh chị em hãy coi đây, niềm hy vọng Kitô giáo không chỉ là một mong muốn, một ước ao, cũng không phải là lạc quan : đối với người Kitô hữu, hy vọng là một sự chờ đợi, một sự chờ đợi nhiệt tình, say mê, sự viên mãn sau cùng và chung quyết của một mầu nhiệm, mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, trong đó chúng ta được sinh ra lần nữa và đã được sinh sống. Và đó là sự chờ đợi Đấng sẽ phải đến : đó là Chúa Kitô, Người luôn ở gần chúng ta, ngày này qua ngày khác, và Người đến để đưa chúng ta vào sự viên mãn của hiệp thông và bình an của Người. Như thế, Giáo Hội có bổn phận giữ cho ngọn đèn hy vọng sáng tỏ và được thấy rõ, để nó có thể tiếp tục chói lọi như một dấu hiệu chắc chắn của sự cứu độ và soi sáng cho toàn thể nhân loại con đường dẫn đến gặp được Thánh Nhan nhân từ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, đó là cái gì chúng ta mong đợi : đợi Chúa Giêsu đến ! Giáo Hội-hiền thê đợi chờ phu quân ! Nhưng chúng ta phải thật lòng tự hỏi ; chúng ta có là những chứng nhân trong sáng và khả tín của sự đợi chờ này, của niềm hy vọng này không ? Các cộng đoàn của chúng ta có còn sống trong dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu hay không ? và trong sự chờ đợi nồng nhiệt Người ngự đến không ? hay là lại có vẻ chán nản, tê cứng dưới sức nặng của mệt mỏi và của lòng cam chịu ? Chúng ta cũng có bị rủi ro cạn dầu của đức tin chúng ta và của niềm vui ? Chúng ta hãy cảnh giác ?
Chúng ta hãy khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của hy vọng và Nữ Vương trên trời để Mẹ gìn giữ chúng ta luôn luôn trong một thái độ lắng nghe và chờ đợi, để cho chúng ta có thể, ngay từ bây giờ, thấm nhuần tình yêu Chúa Kitô và một ngày kia, có phần trong niềm vui bất tận, trong sự hiệp thông tràn đầy của Thiên Chúa. Và xin anh chị em đừng quên, đừng bao giờ quên : "Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi" (1 Tx 4, 17).
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(15 octobre 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/l-eglise-eclaire-pour-l-humanite-le-sentier-qui-conduit-a-dieu

 

Mở rộng Hội Thánh tới tầm vóc Thiên Chúa
Kinh Truyền Tin ngày 12 tháng 10 năm 2014

 

Rôma – 12/10/2014 (Zenit.org)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi "đừng thu hẹp Nước Chúa trong giới hạn của "ngôi thánh đường nhỏ" – "ngôi thánh đường nhỏ xíu" của chúng ta – mà hãy mở rộng Giáo Hội ra tới tầm vóc của Nước Thiên Chúa", trong giờ Kinh Truyền Tin ngày 12/10/2014 này.
Đức Giáo Hoàng đã chủ tọa giờ kinh Đức Mẹ từ cửa sổ văn phòng của ngài trông ra quảng trường thánh Phêrô, trưa chúa nhật này, trước hàng chục ngàn người. Ngài vừa cử hành Thánh Lễ tạ ơn vì lễ phong thánh Đức Giám Mục François de Laval và Mẹ Maria Nhập Thể tại Đền Thánh Phêrô.
"Lòng nhân từ của Thiên Chúa không có biên giới và không kỳ thị ai : vì thế bữa tiệc ơn Chúa mang tính phổ quát, dành cho mọi người", ngài đã nhấn mạnh khi bình giảng bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Mt 22, 1-14). 
Đức Giáo Hoàng đã nói thêm : "Tất cả mọi người đều có được khả năng đáp lại lời mời và lời kêu gọi của ngài : không ai có quyền cảm thấy mình được ưu đãi hay dành được độc quyền. Tất cả điều này thúc đẩy hãy vượt thắng thói tật đặt mình ung dung ở vị trí trung tâm".
Trong khi khuyến khích các tín hữu hãy "mở ra vùng ngoại vi", ngài đã 
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Trong bài Tin Mừng chúa nhật này, Chúa Giêsu phán với chúng ta về sự đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa – trong bài được trình bầy như một vị vua - đến dự một bữa tiệc cưới (x. Mt 22 1-14). Lời mời có 3 đặc tính : miễn phí, tầm vóc, phổ quát. Quan khách được chọn mời rất đông, nhưng đã xẩy ra một chuyện ky lạ : không có ai trong những quan khách này đã nhận lời tham dự, họ đều nói bận làm việc khác; có kẻ lại còn tỏ ra dửng dưng, họ làm như không thèm đếm xỉa, kể cả bực mình vì bị làm phiền. Thiên Chúa nhân lành với tất cả chúng ta, Người ban cho chúng ta tình bạn của Người cách nhưng không, người ban cho chúng ta niềm vui của Người cách nhưng không, sự cứu độ của Người, nhưng biết bao lần, chúng ta đã không đón nhận những ơn ích đó, chúng ta coi những ưu tư vật chất và những lợi ích của chúng ta ưu tiên hơn. Và khi Chúa kêu gọi chúng ta, quá nhiều khi, chúng ta đã từng cảm thấy như là Người quấy rầy chúng ta.
Nhưng mặc cho sự thiếu vắng tham dự của những quan khách được mời, dự án của Thiên Chúa không bị ngưng trệ. Trước sự từ chối của những người được mời lúc ban đầu, Người không nản lòng, không hoãn lại buổi lễ, nhưng đã đưa ra lời mời mới, mở rộng ra ngoài các giới hạn hữu lý và sai các tôi tớ của Người ra các quảng trường và các ngã ba, ngã tư đường để tập họp tất cả những người họ gặp. Đó là những người vô danh tánh, những người nghèo, bị bỏ rơi và tay trắng, những người tốt và những kẻ xấu - kể cả người xấu cũng được mời – không phân biệt. Và phòng tiệc đã đầy ắp những người "bị thải loại". Tin Mừng (cũng thế), bị người này chối bỏ, thì lại được nhiều tâm hồn khác đón nhận một cách không ngờ.
Lòng nhân lành của Thiên Chúa không có bờ bến và không kỳ thị ai : vì thế bữa tiệc cưới ơn phúc của Chúa mang tính phổ quát, cho tất cả mọi người. Mọi người đã được ban cho khả năng đáp trả lời mời của Người, tiếng gọi của Người : không ai có quyền cảm thấy mình được ưu đãi hay đòi hỏi độc quyền. Tất cả điều này thúc đẩy chúng ta hãy vượt thắng thói quen tự đặt mình ung dung ngồi ở vị trí trung tâm, như những lãnh tụ các tư tế và người pharisêu. Điều này không thể được; chúng ta phải mở ra vùng ngoại vi, mà nhận thấy được rằng kể cả những người đứng ngoài lề, kể cả những người bị xã hội ruồng bỏ, bị khinh bỉ,  cũng là đối tượng của lòng khoan dung rộng lượng của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi đừng thu hẹp Nước Chúa vào trong những ranh giới của "một ngôi thánh đường" – "một ngôi thánh đường nhỏ xíu" của chúng ta – mà phải mở rộng Hội Thánh ra tới tầm vóc Vương Quốc của Thiên Chúa. Chỉ có một điều kiện : mặc áo đi ăn cưới, nghĩa là làm chứng lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.
Chúng ta hãy ký thác cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria những thảm kịch và hy vọng của bao nhiêu anh chị em chúng ta, bị hất hủi, yếu đuối, bị ruồng bỏ, khinh khi, và những người đang bị bách hại vì đức tin của họ, và chúng ta cũng hãy khẩn cầu sự che chở của Mẹ trên những công viẹc của Thượng Hội Đồng Giám Mục đang họp trong những ngày này tại Vatican.
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin
Quý anh chị em thân mến,
Sáng nay, tại Sassari, Cha Francesco Zirano, thuôc dòng Phanxicô đã được tuyên phong chân phước : ngài đã chọn cái chết còn hơn là phải từ bỏ đức tin. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì vị linh mục tử đạo này, chứng nhân dũng cảm của Hội Thánh. Lòng trung thành anh dũng của ngài với Đức Kitô là một hành động hùng hồn, đặc biệt trong bối cảnh bách hại không thương xót hiện nay đối với các Kitô hữu.
Vào giờ phút này, chúng ta hãy nghĩ đến thành phố Giênôva lại mới bị thiên tai lũ lụt. Tôi hứa cầu nguyện cho các nạn nhân và cho tất cả những người người đã chịu những thiệt hại nặng nề. Xin Đức Bà Phù Trợ nâng đỡ dân chúng Giênôva thân yêu trong sự tương trợ để vượt qua thử thách khò khăn này. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện Đức Bà Phù Trợ : Kính mừng Maria… Xin Đức Bà Phụ Trợ che chở dân Giênôva !
Tôi chào mừng tất cả các khách hành hương, nhất là các gia đình và các nhóm giáo xứ. Tôi muốn thân ái chào mừng cách riêng nhóm hành hương người Canada đã tới Rôma để dự Thánh Lễ Tạ Ơn lễ phong thánh Đức Cha Phanxicô de Laval và Mẹ Maria Nhập Thể : Xin hai vị Thánh dấy lên trong lòng những người trẻ Canada một lòng sốt sắng truyền giáo.
Tôi chào mừng nhóm thuộc "Tổ chức Kitô giáo của những người khuyết tật" đến từ Pháp, các gia đình của Trường Reinado Corazón de Jesus, ở Madrid, và các tín hữu của Ségovie, các người Ba Lan có mặt ở đây và những người đã phát huy các công trình bác ái nhân dịp "Ngày Đức Giáo Hoàng". Tôi chào mừng các nhóm đông người của Hội Ái Hữu của thánh Colombanô, vị truyền giáo vĩ đại của Châu Âu.
Tôi chúc tất cả anh chị em một ngày chúa nhật tốt đẹp. Xin vui lòng, tôi xin yêu cầu anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi. Xin tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin và Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(12 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/elargir-l-eglise-aux-dimensions-de-dieu

 

 

Chia rẽ giữa các Kitô hữu gây thương tích cho Giáo Hội, Đức Kitô, và chính chúng ta
Các phương thuốc trong bài giáo lý ngày 08/10/2014 (toàn văn)  

Rôma – 08/10/2014 (Zenit.org)
"Chia rẽ giữa các Kitô hữu, trong lúc gây thương tích cho Giáo Hội, còn gây thương tích cho Đức Kitô và cho chính chúng ta", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lưu ý trong bài giáo lý sáng thứ tư này trên quảng trường thánh Phêrô về sự hợp nhất Giáo Hội.
Ngài đã đưa ra những lý do của sự chia rẽ : "cách này hay cách khác, đàng sau những rách nát này, luôn có sự kiêu căng và lòng ích kỷ, vốn là nguyên nhân của mọi sự bất đồng ý kiến và làm cho chúng ta trở nên hẹp hòi, không có khả năng lắng nghe và chấp nhận những người có một cách nhìn hay một lập trường khác với chúng ta".
Ngài cũng khuyên những phương thuốc : cầu nguyện và một "sự thay đổi thái độ" : "chúng ta không nên tự đóng cửa với đối thoại và gặp gỡ", và "hãy nắm lấy tất cả những gì là có giá trị và tích cực được cống hiến cho chúng ta, kể cả từ những người có những suy nghĩ khác với chúng ta hay đã chọn lấy một lập trường khác".
Ngài chỉ ra con đường : "Lịch sử đã chia rẽ chúng ta, nhưng chúng ta đang đi trên con đường hòa giải và hiệp thông".
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý bằng tiếng Ý.
A.B.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Trong những bài giáo lý gần đây, chúng ta đã tìm cách làm sáng tỏ bản chất và cái đẹp của Giáo Hội và chúng ta đã tự hỏi : đối với mỗi người chúng ta, là thành phần của dân này, dân Chúa vốn là Giáo Hội, có nghĩa là gì. Tuy nhiên, chúng ta cũng không được quên rằng có nhiều người anh em không chia sẻ cùng chúng ta đức tin nơi Chúa Kitô, mà thuộc về những tôn giáo khác hay những truyền thống khác với chúng ta. Nhiều người cam phận với sự chia rẽ đó – trong Giáo Hội công giáo cũng vậy, người ta chấp nhận – và trong lịch sử, nó đã thường là nguyên nhân các cuộc tranh chấp và những đau khổ, và kể cả chiến tranh, và đó là điều đáng hổ thẹn ! Ngày hôm nay cũng thế, các quan hệ của chúng ta vẫn chưa thấm nhuần sự tôn kính và thân thiện… Nhưng tôi tự hỏi : chính chúng ta, thì chúng ta thấy mình đang đứng ở đâu trước vấn đề này ? Chúng ta cũng cam chịu, hay dứt khoát dửng dưng đối với sự chia rẽ này ? Hay là chúng ta có tin chắc rằng có thể là phải tiến bước theo chiều hướng hòa giải và hiệp thông đầy đủ không ? Hiệp thông hoàn toàn, nghĩa là tất cả có thể cùng nhau tham gia vào Mình và Máu Chúa Kitô.
Những chia rẽ giữa các Kitô hữu, gây thương tích cho Giáo Hội, và cũng gây thương tích cả cho Đức Kitô và cho chính chúng ta, vì khi chia rẽ, chúng ta gây thương tíh cho Đức Kitô : Giáo Hội quả là nhiệm thể mà Đức Kitô là đầu. Chúng ta biết rõ là Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người hợp nhất với nhau trong tình yêu của Người. Chỉ cần nghĩ đến những lời Người phán được ghi lại trong chương 17 Tin Mừng theo thánh Gioan, lời cầu nguyện với Cha Người trước cuộc thương khó : "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ còn ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha" (Ga, 17, 11). Sự hợp nhất này đã bị đe dọa  ngay lúc Chúa Giêsu còn ở với những môn đệ của Người : trong Phúcc Âm, quả là người ta đã thấy các tông đồ tranh cãi với nhau để xem ai là người lớn nhất, quan trọng nhất (x. Lc 9, 46). Nhưng Chúa đã nhiều lần nhấn mạnh về sự hợp nhất nhân danh Chúa Cha, làm cho chúng ta hiểu rằng sự loan truyền và làm chứng của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi nào chúng ta là những người đầu tiên sống trong niềm hiệp thông và yêu mến lẫn nhau. Đó là điều mà các tông đồ của Người, với ơn của Chúa Thánh Linh, sau đó đã hiểu rõ và luôn gìn giữ đến nỗi thánh Phaolô đã phải cầu xin cộng đoàn Côrintô bằng những lời lẽ như sau : "Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả các anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau" (1 Cr 1, 10).
Suốt con đường của mình trong lịch sử, Giáo Hội đã bị ác thần cám dỗ, nó tìm cách chia rẽ, và khốn thay, Giáo Hội đã trải nghiệm nhiều sự chia rẽ trầm trọng. Đó là những sự ly khai đôi khi kéo dài rất lâu, đến tận ngày nay, bởi vậy ngày nay thật là khó để có thể kể lại tất cả những động cơ đó và nhất là để tìm ra những giải pháp có thể. Những nguyên nhân dẫn đến những sự gẫy đổ và phân ly đó có thể rất đa dạng : những bất đồng quan điểm về các nguyên tắc tín lý và luân lý hay về những quan niệm thần học và mục vụ khác nhau, đó là không kể những nguyên nhân chính trị và tập quán, và còn dẫn đến những cuộc đụng độ vì ác cảm và tham vọng cá nhân… Điều chắc chắn là, bằng cách này hay cách khác, đàng sau những rách nát này, luôn có sự kiêu căng và lòng ích kỷ, vốn là nguyên nhân của mọi sự bất đồng ý kiến và làm cho chúng ta trở thành hẹp hòi, không có khả năng lắng nghe và chấp nhận những người có một cách nhìn hay một lập trường khác với chúng ta. 
Bây giờ, trước chuyện này, có điều gì mà mỗi người trong chúng ta, với tư cách là thành viên của Mẹ Hội Thánh, có thể hoặc phải làm không ? Cầu nguyện khẳng định là cần thiết, tiếp nối và hiệp thông với Chúa Giêsu, cầu nguyện cho sự hợp nhất các Kitô hữu. Và với cầu nguyện, Chúa yêu cầu chúng ta một sự cởi mở mới : Người yêu cầu chúng ta không được đóng cửa với đối thoại và gặp gỡ, mà phải nắm lấy tất cả những gì là có giá trị và tích cực được cống hiến cho chúng ta, kể cả từ những người có những suy nghĩ khác với chúng ta hay đã chọn lấy một lập trường khác. Người yêu cầu chúng ta không nên chỉ nhìn thấy những gì chia rẽ chúng ta, mà hãy nhìn thấy những gì kết hợp chúng ta, trong khi tìm cách hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu hơn và chia sẻ sự sung túc của tình yêu Người. Và điều này cụ thể bao hàm sự kiện chúng ta gắn liền với chân lý, với khả năng tha thứ cho nhau, cảm thấy chúng ta tham gia vào cùng một gia đình Kitô giáo, coi mình như một món quà tặng cho nhau và cùng làm nhiều việc tốt lành và các công trình từ thiện.
Nhưng đã có những chia rẽ, đã có những Kitô hữu chia rẽ, chúng ta chia rẽ; đó là một sự đau khổ. Nhưng tất cả chúng ta đều có cái gì chung : tất cả chúng ta đều tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả chúng ta đều tin vào Đức Chúa Cha và Chúa Thánh Linh và tất cả chúng ta đều đang đi, chúng ta đồng hành. Chúng ta hãy giúp đỡ lẫn nhau ! Nhưng bạn ơi, bạn nghĩ như thế này, bạn nghĩ như thế kia… Trong mọi cộng đoàn, có các nhà thần học lỗi lạc : họ hãy thảo luận đi, họ hãy đi tìm chân lý thần học bởi vì đó là một bổn phận, nhưng chúng ta, chúng ta hãy cùng nhau vừa bước đi vừa cầu nguyện cho nhau và làm những công việc từ thiện. Và như thế, chúng ta hiệp thông trên đường. Đó chính là cái mà người ta gọi là đại kết thiêng liêng : tất cả chúng ta cùng bước đi trên con đường đời trong đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người ta bảo, không nên nói những điều riêng tư, nhưng tôi không chống lại cám dỗ này. Chúng ta nói đến hiệp thông… hiệp thông giữa chúng ta. Và hôm nay, tôi rất tạ ơn Chúa bởi vì đúng 70 năm trước tôi đã rước lễ lần đầu. Nhưng chúng ta đều phải biết rằng chịu lễ lần đầu có nghĩa là đi vào hiệp thông với người khác, với những người anh em trong Giáo Hội chúng ta và còn là hiệp thông với tất cả những người thuộcc về các cộng đoàn khác nhưng cùng tin Đức Giêsu. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì phép Rửa của chúng ta, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì sự hiệp thông của chúng ta, và để cho sự hiệp thông này sẽ là hiệp thông của tất cả mọi người, cùng chung.
Các bạn thân mến, chúng ta hãy tiến bước về sự hợp nhất toàn diện ! Lịch sử đã chia rẽ chúng ta, nhưng chúng ta đang đi trên con đường hòa giải và hiệp thông. Và đúng như thế ! Và chúng ta phải bảo vệ con đường này ! Tất cả chúng ta đều đang trên đường đi tới hiệp thông. Và khi mục đích có vẻ quá xa vời đối với chúng ta, gần như khó đạt tới, và chúng ta cảm thấy thất vọng, thì chúng ta hãy để mình được an ủi bởi ý nghĩ là Thiên Chúa không thể bịt tai với Con của Người là Chúa Giêsu mà không nhậm lời cầu xin của Người và lời cầu nguyện của chúng ta, để cho tất cả mọi Kitô hữu đều trở nên một.
Bàn dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 8 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-divisions-entre-chretiens-blessent-l-eglise-le-christ-et-nous-memes

 

 

Ơn sủng không phải là vì ta xứng đáng, đó là một quà tặng.
Bài giáo lý ngày 01 tháng 10 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 01/10/2014 (Zenit.org)
Ơn sủng ban cho một ai đó "không phải vì người đó hơn những người khác hay vì người đó xứng đáng với ơn đó" : "đó là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho người đó để, với cùng sự nhưng không và cùng tình yêu thương, người đó có thể đem ra phục vụ toàn thể cộng đoàn, vì ích lợi của tất cả mọi người", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích, trong cuộc triều kiến chung ngày 01/10/2014, trên quảng trường thánh Phêrô.
Ngày thứ tư tuần này, Đức Giáo Hoàng đã đọc bài giáo lý thứ 8 dành nói về Giáo Hội : sau các bài "Sáng kiến của Thiên Chúa", "Sự thống thuộc Giáo Hội của các Kitô hữu", "Giáo Hội là giao ước mới và dân tộc mới", "Giáo Hội duy nhât, thánh thiện", "Tính từ mẫu của Giáo Hội", "Giáo Hội dạy dỗ lòng nhân từ"  và "Giáo Hội công giáo và tông truyền", Đức Giáo Hoàng suy niệm về "Các Ân Sủng".
Ngài nhấn mạnh : "người ta không thể tự mình hiểu được là mình có ơn sủng không và là ơn nào… Không ai có thể nói rằng "Tôi có ơn sủng này". Chính trong lòng cộng đoàn mà có thể đâm nụ, trổ hoa những ơn sủng mà Chúa Cha ban tràn đầy cho chúng ta; và chính là trong lòng cộng đoàn mà người ta học cách nhận biết các ơn sủng đó như là một dấu chỉ tinh yêu của Người đối với tất cả các con cái Người".
Đức Giáo Hoàng đã cảnh giác chống lại "lòng ham muốn, sự chỉa rẽ, tính ghen tuông" : "tất cả các ân sủng đều quan trọng trước mắt Thiên Chúa và không ân sủng nào có thể thay thế được. Điều này có nghĩa là, trong cộng đoàn Kitô hữu, chúng ta đều cần lẫn nhau, và mỗi ân sủng nhận được sẽ sống động toàn vẹn khi ân sủng đó được chia sẻ với các anh em, vì lợi ích của tất cả mọi người", ngài khẳng định.
Khi Giáo Hội, trong sự đa dạng của các ân sủng, tuyên bố trong cộng đoàn, Giáo Hội không thể sai lầm được : đó là cái đẹp và là sức mạnh của "sensus fidei" (ý nghĩa đức tin), của cái ý nghĩa siêu nhiên này của đức tin, vốn được Chúa Thánh Thần ban xuống để, cùng nhau, chúng ta có thể đi vào trọng tâm của Phúc Âm và học theo Chúa Giêsu", Đức Giáo Hoàng nói thêm.
Ngài đã mời gọi hãy xét mình và tự hỏi "trong tôi có một ân sủng không, ân sủng này có được Giáo Hội công nhận không, tôi có bằng lòng về ân sủng này không hay tôi có đôi chút ganh tỵ với các ân sủng của người khác không, tôi có ao ước hay đã muốn có một ân sủng nào đó không".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Từ khởi thủy, Chúa đã đổ đầy cho Giáo Hội các ơn sủng của Chúa Thánh Thần, làm cho Giáo Hội trở nên sống động và đông đảo con cái. Trong những ân điển này, người ta phân biệt được một số ơn đặc biệt quý giá cho việc xây dựng và vạch ra hành trình của cộng đoàn Kitô hữu : đó là các ơn đặc sủng. Trong bài giáo lý này, chúng ta muốn tự hỏi : chính xác một ơn đặc sủng là gì ? Làm sao chúng ta có thể nhận biết và đón nhận ơn đó ? Và nhất là : sự kiện trong Giáo Hội, có một sự đa dạng và vô số ơn sủng, có được coi như tích cực, như cái gì đẹp, hay là như một vấn đề ?
Trong ngôn ngữ đời thường, khi người ta nói đến "charisma" (uy tín), người ta thường hay nghe nhắc về một tài năng, một khả năng tự nhiên. Người ta nói : "Người này có uy tín để giảng dậy. Đó là năng khiếu mà người đó có". Cũng vậy, trước một con người đặc biệt lỗi lạc và làm ta khâm phục, người ta có thói quen nói rằng : "Đó là một người có uy tín - Điều này có nghĩa là gì ? – Tôi không biết, nhưng người đó có uy tín" Chúng ta nói như vậy. Chúng ta không biết điều chúng ta nói, nhưng chúng ta nói : "Người đó uy tín". Trong viễn cảnh Kitô giáo, chữ charisma có nghĩa rộng hơn là một phẩm chất cá nhân, hơn là một thiên hướng mà người đó có năng khiếu : từ charisma có nghĩa là một ân sủng, một quà tặng được Thiên Chúa Cha chúng ta ban tặng, qua tác động của Chúa Thánh Linh. Và đó là quà tặng được ban cho ai đó, không phải vì người này hơn những người khác hay bởi vì người này xứng đáng : đó là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho người đó để, với cùng một tính nhưng không và cùng một tình yêu thương, người này có thể đem ra phục vụ cho toàn thể cộng đoàn, vì lợi ích của tất cả mọi người. Để nói điều này theo ngôn ngữ người thường, người ta nói rằng : "Thiên Chúa ban tư chất này, uy tín này cho người nào đó, nhưng không phải riêng cho người đó, mà để người đó mang ra phục vu toàn thể cộng đoàn". Ngày hôm nay, trước khi ra quảng trường này, tôi đã tiếp kiến nhiều trẻ em khuyết tật trong sảnh đường Phaolô VI. Các em rất đông, với một hiệp hội hiến thân cho việc chăm sóc các em này. Đây là cái gì ? Cơ hội này, những con người này, những người nam và nữ này có một ơn đoàn sủng chăm sóc các em khuyết tật. Đó là một ân sủng !
Cần phải nhấn mạnh ngay một số điều quan trọng : người ta không thể tự mình hiểu được rằng mình có một ơn đặc sủng hay không, và là ơn nào. Chúng ta rất thường nghe nói rằng : "Tôi có tư chất này, tư chất kia, tôi hát rất hay !" Và chẳng ai có can đảm nói rằng : "Ban nên im miệng đi bởi vì bạn làm chúng tôi bực mình khi bạn hát !". Không ai có thể nói : "Tôi có ơn đặc sủng này hay ơn đặc sủng kia". Chính trong nội bộ cộng đoàn mới có thể dâm nụ, nở hoa những ơn phúc mà Chúa Cha đổ tràn trên chúng ta; và chính trong lòng cộng đoàn mà ta mới học được cách nhận biết những ơn đó như một dấu chỉ của tinh yêu Người dành cho tất cả con cái Người. Như thế mỗi người trong chúng ta nên tự hỏi : "Có một ơn thánh sủng nào mà Chúa đặt để trong tôi, trong ơn phúc Thần Khí của Người, mà các anh em tôi, trong cộng đoàn Kitô hữu đã nhìn ra hay khuyến khích ? Và tôi đã hành xử như thế nào với ơn sủng đó : liệu tôi có trải nghiệm với lòng rộng lượng bằng cách mang ra phục vụ tất cả mọi người hay không ? hay là tôi đã bỏ lơ để rồi cuối cùng, lãng quên ? Hoặc có thể đó lại là nguyên nhân để tôi kiêu ngạo đến độ tôi luôn than phiền người khác và chờ đợi người ta phải làm theo cách của tôi trong cộng đoàn ?". Đây là những câu hỏi mà chúng ta phải đặt cho mình : trong tôi có một ơn thánh sủng không ? ơn đó có được Giáo Hội công nhận không ? tôi có vui lòng vì ơn thánh sủng đó hay tôi cảm thấy đôi chút ganh tỵ với những ơn thánh sủng của người khác không ? tôi đã có ước ao hay đang muốn một ơn thành sủng nào đó không ? Ơn thánh sủng là một quà tặng : chỉ có Thiên Chúa mới ban cho.
Nhưng, trải nghiệm đẹp nhất là khi ta khám phá ra tất cả sự đa dạng của các ơn thánh sủng và những quà tặng của Thánh Linh mà Chúa Cha đã đổ tràn đầy xuống cho Giáo Hội. Không được xem đây như một cơ hội gây lẫn lộn và bất ổn : tất cả đều là quà tặng Thiên Chúa ban cho cộng đoàn Kitô hữu của Người, để cộng đoàn có thể lớn lên hài hòa, trong đức tin và trong tình yêu của Người, như cùng một thân thể , thân thể Chúa Kitô. Chính cũng Chúa Thánh Linh đã ban sự đa dạng của các ơn sủng và làm nên sự thống nhất của Giáo Hội. Vẫn luôn là Chúa Thánh Thần. Trước vô số các ơn thánh sủng, trái tim chúng ta phải mở ra với niềm vui và chúng ta phải ghĩ rằng : "Đúng là  đẹp ! Bao nhiêu là những ơn khác nhau, bởi vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, và tất cả đều được yêu thương cùng một cách". Như thế, cần phải thận trọng nếu những ơn sủng này trở thành những những nguyên nhân của thèm muốn, chia rẽ, ganh tỵ ! Cũng như thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở trong lá thư thứ Nhất của ngài gửi giáo đoàn Côrintô, nơi chương 12, tất cả các ơn sủng đều quan trọng trước mắt Thiên Chúa và, đồng thời, không có ơn nào có thể thay thế được. Điều này có nghĩa rằng, trong cộng đoàn Kitô hữu, chúng ta đều cần đến lẫn nhau, và mỗi ơn nhận được sẽ sống đầy đủ khi nó được chia sẻ với các anh em, vì ích lợi của tất cả mọi người. Giáo Hội chính là thế đó ! Và khi Giáo Hội, với sự đa dạng của các ơn thánh sủng, tuyên bố trong sự hiệp thông, thì Giáo Hội không thể sai lầm được : đó là vẻ đẹp và sức mạnh của "ý nghĩa đức tin", của cái ý nghĩa siêu nhiên này của đức tin, vốn được Chúa Thánh Linh ban cho, và cùng nhau, tất cả chúng ta có thể đi vào trọng tâm của Phúc Âm và học theo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta.
Ngày hôm nay, Giáo Hội mừnng lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Vị thánh này, từ trần năm 24 tuổi và rất yêu thương Giáo Hội, đã muốn làm một thừa sai, nhưng lại muốn có tất cả những ơn sủng và đã nói : "Tôi muốn làm điều này, điều kia, điều nọ" : bà muốn tất cả các ơn thánh sủng. Bà đã bắt đầu cầu nguyện và bà đã cảm thấy rằng ơn thánh sủng là tình yêu. Và bà đã nói câu nói đẹp này : "Trong trái tim của Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu". Và ơn thánh sủng này, tất cả chúng ta đều có : khả năng yêu thương. Ngày hôm nay chúng ta cầu xin Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu khả năng yêu thương Giáo Hội, yêu thương thật nhiều và nhận lãnh tất cả những ơn thánh sủng của Giáo Hội, tình yêu thương này của các con cái Giáo Hội, mẹ Giáo Giáo Hội thánh thiện và có hệ thống.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 1 octobre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/un-charisme-n-est-pas-merite-c-est-un-cadeau

 

 

Kỷ niệm hai trăm năm phục hoạt Dòng Tên :
"Anh em hãy chèo đi ! Chèo đi, anh em hãy mạnh mẽ lên !"

Bài giảng lễ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (toàn văn)

 

Rôma – 29/9/2014 (Zenit.org)
Đức Giáo Hoàng mời gọi người công giáo hãy luôn tiến lên, mặc cho ngược gió : "Màn đêm và quyền lực đen tối luôn gần nhau. Chèo chống thật là mỏi mệt. Các tu sĩ Dòng Tên phải là "những người chèo thuyền thành thạo và dũng cảm" : các bạn hãy chèo đi ! Hãy chèo đi và hãy mạnh mẽ lên, dù cho gió ngược !"
Qua những lời lẽ này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rút ra bài học, cho tất cả Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu, từ lịch sử của Dòng Tên, bị ĐGH Clêmentê XIV giải thể và được ĐGH Piô VII phục hồi.
Đức Giáo Hoàng đã chủ tọa, trong thánh đường Rất thánh danh Chúa Giêsu ở Argentina, tại Rôma, lễ nghi phụng vụ tạ ơn nhân dịp kỷ niệm 200 năm phục hoạt Dòng Tên trong Giáo Hội hoàn vũ bởi ĐGH Piô VII, với sắc chỉ Sollicitudo omnium ecclesiarum ngày 07/8/1814.
Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh về thái độ phải có trong những bất hạnh, từ thái độ của bề trên tổng quyền thời đó là cha Lorenzo Ricci : "Cha Ricci đã kết luận bằng một lời hiệu trìệu hãy giữ cho sống mãi tinh thần bác ái, hợp nhất, vâng phục, nhẫn nại, đơn sơ của Tin Mừng, tình bạn đích thực với Thiên Chúa. Tất cả điều còn lại đều là trần tục".
"Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Thiên Chúa tưởng thưởng lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta" Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Trong lễ nghi phụng vụ trọng thể, cũng bao gồm kinh chiều và bài hát tạ ơn Te Deum, sau khi tuyên đọc Tin Mừng và trước sự nhắc lại những lời hứa từ phía các tu sĩ Dòng Tên có mặt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên đọc bài huấn đức mà chúng tôi công bố bản dịch toàn văn dưới đây.
A.B.
Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thưa các bạn thân mến và thưa các bằng hữu trong Chúa,
Tu hội mang tên Chúa Giêsu đã trải nghiệm những thời gian khó khăn, bách hại. Thời đức tổng quyền Lorenzo Ricci, "những kẻ thù của Giáo Hội đã thành công nhờ sự giải thể Tu Hội Chúa Giêsu" (ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi cha Kolvenbach, 31/7/1990) bởi vị tiền nhiệm của tôi là ĐGH Clément XIV. Ngày hôm nay, khi nhắc lại sự phục hoạt của tu hội, chúng ta được kêu gọi hãy tìm lại ký ức của chúng ta, hãy kỷ niệm, khi nhớ lại trong đầu những ơn ích đã nhận được và những ân điển đặc biệt (x. Exercices Spirituels, 234). Và ngày hôm nay, tôi muốn làm chuyện đó ở đây với anh em.
Trong những giai đoạn gian truân và hỗn loạn, một cơn bão nghi nan và đau đớn thường hay đổ xuống, và không dễ gì để đi tới, để tiếp tục con đường của mình. Và nhất là, trong thời gian khó khăn và khủng hoảng, nhiều cám dỗ đã xuất hiện : dừng chân lại để đấu tranh tư tưởng, để mình bị lôi kéo vào trong phiền não, tập trung suy nghĩ về sự kiện là mình bị bách hại và không còn thấy gì nữa. Khi đọc lại những thư từ của cha Ricci, có một điều đã đánh động tôi rất nhiều : khả năng của ngài không để mình bị trói chân trói tay bởi những cám dỗ và đề nghị với các tu sĩ Dòng Tên, trong cái lúc của những bất hạnh, một cách nhìn các sự kiện vẫn còn gắn chặt họ hơn nữa vào trong linh đạo của Tu Hội.
Cha tổng quyền Riccci, đã viết cho các tu sĩ Dòng Tên thời đó khi nhìn thấy mây mù chồng chất ở phía chân trời, tăng cường cho họ trong sự thống thuộc vào thân thể của Tu Hội và vào sứ vụ của Hội. Đó là một giai đoạn lộn xộn và hỗn loạn, ngài đã làm một sự phân định. Ngài không mất thời gian đấu tranh tư tưởng và than vãn, mà ngài đã gánh vác lấy ơn gọi của Tu Hội. Chính ngài là người phải gìn giữ ơn gọi, và ngài đã đảm nhận nó.
Và thái độ này đã khiến các tu sĩ Dòng Tên trải nghiệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Khi đã mất hết, cho đến cả căn tính công cộng của họ, họ vẫn không chống lại thánh ý Thiên Chúa, họ đã không chống lại sự tranh chấp để tìm cách tự cứu lấy họ. Tu Hội, và thật là đẹp, đã trải nghiệm cuộc tranh chấp đến cùng, không làm cho nó giảm bớt : Tu Hội đã trải nghiệm sự xỉ nhục với Đức Kitô bị xỉ nhục, Hội đã vâng phục. Người ta không thể thoát khỏi cuộc tranh chấp bằng mưu mô hay bằng mánh lới để chống lại. Trong cơn hỗn loạn và trước sự xỉ nhục, Tu Hội đã chọn cách trải nghiệm sự phân định thánh ý Thiên Chúa, không tìm cách ra khỏi cuộc tranh chấp một cách bề ngoài yên lành, hay ít ra cũng là lịch lãm. Tu Hội đã không làm điều đó.
Không bao giờ sự thanh thản bề mặt có thể thỏa mãn tâm hồn chúng ta được, sự bình an đích thực vốn là một ơn phúc của Thiên Chúa. Không bao giờ đi tìm "thỏa hiệp" dễ dàng cũng không thể hiện "thái độ hòa giải" dễ dãi. Chỉ có sự phân định có thể giải cứu chúng ta khỏi sự mất gốc đích thực, khỏi sự "gạt bỏ" tâm hồn, vốn là lòng ích kỷ, sự trần tục, sự mất định hướng, gạt bỏ niềm hy vọng là Chúa Giêsu, chỉ duy nhất Chúa Giêsu. Và như thế, cha Ricci, với Tu Hội đang sắp bị giải thể, đã chọn ưu tiên là lịch sử chứ không chọn điều mà có thể chỉ là "chuyện vặt", biết rằng chính tình yêu sẽ phán xét lịch sử, và biết rằng hy vọng – dù trong bóng đêm – cũng vẫn to lớn hơn những mong đợi của chúng ta.
Sự phân định phải được tiến hành với một chủ tâm ngay thẳng, với một nhãn quan đơn sơ. Vì vậy cha Ricci, trong cái thời buổi nhiễu nhương và hỗn loạn này, đã nói lên được những tội lỗi của các tu sĩ Dòng Tên. Ngài làm một điều có vẻ phản tuyên truyền ! Ngài không tự bảo vệ bằng cách cảm thấy mình là nạn nhân của lịch sử, mà ngài đã tự nhận là tội lỗi. Nhìn vào chính mình và thú nhận mình tội lỗi tránh cho mình tự đặt mình vào cái thế là nạn nhân trước mặt đao phủ thủ. Thú nhận mình tội lỗi, thú nhận mình thực sự là kẻ tội đồ, có nghĩa là tự đặt mình trong thái độ công chính để nhận lãnh sự an ủi.
Chúng ta có thể lược lại sơ qua hành trình phân định và phục vụ mà cha bề trên Tổng Quyền đã chỉ cho Tu Hội. Vào năm 1759, khi những nghị định Pombal đã phá hủy các tỉnh dòng của Tu Hội ở Bồ Đào Nha, cha Ricci đã trải nghiệm cuộc tranh chấp mà không một lời than vãn và không để mình đi vào phiền não, mà ngài đã mời gọi cầu nguyện để xin ơn tinh thần tốt lành; một tinh thần siêu nhiên đích thực của ơn gọi, sự ngoan hiền hoàn toàn với ân sủng của Thiên Chúa.
Vào năm 1761, khi cơn bão thổi tới nước Pháp, cha bề trên Tổng Quyền đã yêu cầu đặt để tất cả niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.  Ngài muốn rằng những thử thách phải gánh chịu sẽ có tác động thanh tẩy nội tâm mạnh mẽ hơn : những thử thách này đưa chúng ta đến với Thiên Chúa và có thể phục vụ cho vinh quang to lớn hơn của Người; rồi ngài khuyên bảo cầu nguyện, đời sống thánh thiện, lòng khiêm nhường và tinh thần vâng phục.
Năm 1767, sau vụ trục xuất các tu sĩ Dòng Tên Tây Ban Nha, ngài lại mời gọi cầu nguyện. Và sau cùng, ngày 21/02/1773,  mới chỉ 6 tháng sau khi chiếu thư Dominus ac Redemptor được ký, trước sự thiếu thốn toàn diện những giúp đỡ về nhân sự, ngài đã thấy bàn tay đầy thương xót của Thiên Chúa là Đấng đang mời gọi những ai được Người cho chịu thử thách đừng tin tưởng vào bất cứ người nào khác, ngoài một mình Người thôi. Lòng tin tưởng phải lớn lên đúng vào lúc những hoàn cảnh xô đẩy chúng ta ngã xuống đất. Theo cha Riccci, điều quan trọng là Tu Hội phải trung thành đến cùng với tinh thần ơn gọi của mình là Danh Chúa vinh hiển hơn và cứu rỗi các linh hồn.
Tu Hội, dù là đứng trước cái chết của chính mình, vẫn trung thành với mục đích mà Tu Hội đã  được lập nên. Đó là lý do khiến cha Ricci kết luận bởi một lời kêu gọi hãy giữ cho sống động  tinh thần bác ái, hợp nhất, vâng phục, nhẫn nại, đơn sơ Tin Mừng, tình bạn đích thực với Thiên Chúa. Tất cả những gì còn lại chỉ là trần tục. Mong rằng ngọn lửa vinh quang Thiên Chúa to lớn hơn còn đi qua chúng ta trong ngày hôm nay, đốt cháy mọi sự thỏa mãn và bao bọc chúng ta trong ngọn lửa đang ở trong chúng ta, đang tập trung chúng ta, làm cho chúng ta nở ra, làm cho chúng ta lớn lên và nhỏ lại.
Chính như thế mà Tu Hội đã trải nghiệm thử thách tột đỉnh của sự hy sinh đã giáng xuống họ một cách bất công, đã lấy bản kinh của ông Tôbia làm của mình, linh hồn trĩu nặng đau buồn, than thở, khóc lóc và sau cùng là cầu nguyện : "Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, Tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật, chính Ngài xét xử thế gian. Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm, và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con, các ngài đã phạm tội trước Thánh Nhan và bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đầy và chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán". Và cha kết luận với lời nài xin quan trọng nhất : "Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con" (Tb 3, 2-4 cà 6d).
Và Chúa đã trả lời bằng cách gửi thiên thần Raphael gỡ đi những vẩy trắng trong đôi mắt của ông Tôbia, để ông nhìn thấy lại được ánh sáng của Thiên Chúa. Thiên Chúa nhân từ, Thiên Chúa tưởng thưởng lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta. Đôi khi, con đường dẫn đến sự sống rất hẹp và nhỏ bé nhưng sự bất hạnh, nếu nó được trải nghiệm dưới ánh sáng của lòng thương xót, thanh tẩy chúng ta như lửa, cho chúng ta nhiều an ủi và hun đốt trái tim chúng ta bằng cách gợi ý thú vui cầu nguyện. Trong lúc bị giải thể, các anh em Dòng Tên của chúng ta đã giữ nhiệt tâm của tinh thần và đã kiên trì trong phục vụ Chúa, vui vẻ trong hy vọng, không thay đổi trong bất hạnh, kiên định trong cầu nguyện (x. Rm 12, 13). Và đó là điều đã mang danh dự lại cho Tu Hội, và không là những ca tụng của những công lao của mình. Sẽ mãi mãi như thế.
Chúng ta hãy nhớ lịch sử của chúng ta : Tu Hội "đã được ơn phúc chẳng những tin vào Chúa, mà còn được chịu đau khổ vì Người" (Pl 1, 29). Chúng ta cần nhớ điều này.
Con thuyền Tu Hội đã bị chao đảo bởi sóng cồn và không có gì đáng ngạc nhiên. Con thuyền của ông Phêrô, ngày hôm nay cũng có thể bị như thế. Màn đêm và quyền lực của bóng tối luôn gần với nhau. Thật là mệt khi chèo lái. Các tu sĩ Dòng Tên phải là "những tay chèo thành thạo và dũng cảm" (ĐGH Piô VII, Sollecitudo omnium ecclesiarum) : các anh em hãy chèo đi ! Hãy chèo đi, hãy mạnh mẽ lên, dù cho gió có thổi ngược ! Chúng ta chèo thuyền cho Giáo Hội. Chúng ta cùng nhau chèo ! Nhưng trong lúc chúng ta chèo – tất cả chúng ta cùng chèo, Đức Giáo Hoàng cũng chèo trên chiếc thuyền của thánh Phêrô – chúng ta phải cầu nguyện nhiều : "Lạy Chúa xin cứu chúng con !", "Lạy Chúa, xin cứu dân của Người !". Chúa sẽ cứu độ chúng ta, dù cho chúng ta là những người yếu lòng tin và những người tội lỗi. Chúng ta hãy hy vọng nơi Chúa ! Chúng ta hãy luôn hy vọng nơi Chúa !
Tu Hội, được phục hoạt bởi vị tiền nhiệm của tôi là ĐGH Piô VII, đã được làm nên bởi những con người dũng cảm và khiêm nhường trong sự làm chứng của họ về hy vọng, về tình yêu và về óc sáng tạo tông vụ, của Chúa Thánh Thần. ĐGH Piô VII đã viết, muốn phục hoạt Tu Hội để "đáp ứng cách thích hợp những nhu cầu thiêng liêng của thế giới Kitô giáo không có những khác biệt về chủng tộc và quốc gia" (ibid). Bởi thế ngài đã cho phép các tu sĩ Dòng Tên còn đang hiện hữu nơi này, nơi khác, nhờ vào một vị vua theo phái Luther và một nữ hoàng Chính Thống Giáo, "để sống hợp nhất trong một thân thể duy nhất". Mong rằng Tu Hội luôn hợp nhất trong một thân thể duy nhất !
Và Tu Hội đã ngay lập tức là dòng truyền giáo và đã đặt mình cho Tòa Thánh sử dụng, dấn thân cách rộng lượng "dưới lá cờ Thánh Giá cho Chúa và vị đại diện Người trên thế gian" (Formule de l'Institut, 1). Tu Hội đã tiếp nối lại hoạt động tông đồ của mình bởi sự rao giảng và giáo huấn, những sứ vụ thiêng liêng, sự khảo cứu khoa học và hoạt động xã hội, các sứ vụ và sự săn sóc người nghèo, người bệnh tật và người bên lề xã hội.
Ngày hôm nay, với trí tuệ và lòng hăng hái, Tu Hội đang đương đầu với vấn đề đau thương của những di dân và tỵ nạn : Hội nỗ lực, với sự phân định, để kết hợp dịch vụ đức tin và việc phát huy công lý, đúng theo tinh thần Phúc Âm. Tôi xác nhận, ngày hôm nay, điều mà ĐGH Phaolô VI đã nói với chúng ta trong dịp Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 32 mà tôi đã tai nghe, mắt thấy : "Ở mọi nơi trong Giáo Hội, kể cả những lãnh vực khó khăn nhất hay mũi nhọn, ở những ngã tư của các học thuyết, trong những giao thông hào xã hội, đã có và sẽ còn có một  sự đương đầu giữa những đòi hỏi nóng bỏng của con người và thông điệp lâu đời của Phúc Âm, tại những nơi đã hoặc đang có các tu sĩ Dòng Tên" (Enseignements XII (1974), 1181). Đó là những lời tiên tri về tương lai của ĐGH Phaolô VI.
Năm 1814, lúc phục hoạt, các tu sĩ Dòng Tên là một đàn chiên nhỏ, một "Tu Hội rất nhỏ", nhưng tự biết mình được giao phó, sau thử thách thánh giá, sứ vụ trọng đại là mang ánh sáng Phúc Âm đến tận cùng trái đất. Chính như thế mà chúng ta cũng phải cảm thấy trong ngày hôm nay : mình đang đi ra, thi hành sứ vụ. Căn tính của tu sĩ Dòng Tên là căn tính của một con người thờ phượng chỉ một mình Thiên Chúa và yêu mến và phục vụ anh em mình, cho thấy bằng gương sống của mình, không những điều mình tin, mà còn điều mình hy vọng và ai là Đấng nơi Người mình đặt trọn niềm tin tưởng (x. 2 Tm 1, 12). Người tu sĩ Dòng Tên muốn là bạn đồng hành với Chúa Giêsu, là một người có cùng tình cảm như Chúa Giêsu.
Sắc chỉ của ĐGH Piô VII phục hoạt Tu Hội đã được ký ngày 07/8/1814 trong Đền Đức Bà Cả, nơi cha thánh Ignace của chúng ta đã cử hành Thánh Lễ đầu tiên trong đêm Giáng Sinh 1538. Đức Maria, Đức Bà, Đức Mẹ của Tu Hội, sẽ cảm động vì những nỗ lực của chúng ta trong khi phục vụ Con Mẹ. Cầu xin Mẹ gìn giữ chúng ta và che chở chúng ta luôn luôn.
Bản dịch tiếng Pháo : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(29 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/bicentenaire-de-la-restauration-de-la-compagnie-de-jesus-ramez-donc-ramez-soyez-forts

"Lời nói mà không có làm chứng chẳng ích lợi gì"
Đại Hội của Hội Đồng về Tái truyền giảng Phúc Âm  

Rôma – 22/9/2014 (Zenit.org)
"Lời nói mà không có làm chứng thì chẳng ích lợi gì", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố hôm 19/9/2014 : quả là sự làm chứng "có thể đánh động và làm thay đổi lòng người", chính nó "làm cho lời nói có giá trị".
Đức Giáo Hoàng đã gặp các tham dự viên cuộc hội ngộ quốc tế "Dự án mục vụ của tông huấn Evangelii gaudium", được tổ chức bởi Hội Đồng Giáo Hoàng về Tái truyền giảng Phúc Âm, từ ngày 18 đến ngày 20/9/2014 tại Vatican.
Ngài đã yêu cầu họ "nhẫn nai và kiên trì" : "Chúng ta không có 'đũa thần' cho mọi chuyện, nhưng chúng ta có lòng tin tưởng vào Chúa là Đấng đồng hành với chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta".
Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi hãy "dấn thân cụ thể" để đáp lại "tất cả những người, đang ở ngoài lề cuộc sống hiện nay, đang bối rối và chán chường và đang đợi chờ Giáo Hội", "tất cả những người đó đang sống trong rất nhiều đau đớn và cầu xin Giáo Hội hãy là một dấu chỉ của sự gần gũi, của lòng nhân lành, của sự liên đới và của lòng thương xót của Chúa.
Trước những "đòi hỏi mục vụ" nặng nề, đang có nguy cơ "làm sợ hãi", ngài đã khuyến cáo chống lại cám dỗ "tự khép mình lại trong một thái độ sợ hãi và thủ thế", và chống lại "cám dỗ của sự tự mãn và chủ nghĩa giáo phẩm, quy tắc hóa đức tin thành quy định và chỉ thị".
Mục vụ cũng không phải là "một chuỗi sáng kiến xung năng" nơi người ta "cữ mãi bận bịu gia tăng hoạt động, hơn là chú tâm đến những con người và sự gặp gỡ của họ với Thiên Chúa", ngài nói thêm : những người "cầu xin điều họ xin với Chúa Giêsu : đồng hành và gần gũi".
Nhấn mạnh trách nhiệm của các cộng đoàn Kitô hữu, Đức Giáo Hoàng đã khuyến khích hãy "mỗi ngày năng ra ngoài để đi gặp những người đang đi tìm Chúa. Tới với những người yếu hèn nhất, những người nghèo khó nhất… dù chỉ là trong một tiếng đồng hồ".
A.K.
Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em,
Tôi sung sướng được tham gia vào công việc của anh chị em và tôi cảm ơn Đức Cha Rino Fisichella vì sự giới thiệu của Đức Cha. Tôi cảm ơn vì đoạn "đời" này : đó là đời sống ! Cảm ơn.
Anh chị em làm việc cho mục vụ trong các Giáo Hội khác nhau trên thế giới, anh chị em tập họp lại để cùng nhau suy nghĩ về dự án mục vụ của Evangelii gaudium. Quả vậy, chính tôi đã viết rằng tài liệu này có "một ý nghĩa lập trình và những hậu quả quan trọng" (EG số 25). Và nó không có thể khác đi khi đó là vấn đề sứ vụ chính của Giáo Hội, nghĩa là truyền giảng Phúc Âm ! Tuy nhiên, có những giai đoạn mà xứ vụ này trở nên cấp bách và trách nhiệm của chúng ta cần phải được làm cho sắc bén lên.
Thứ nhất, đã hiện ra trong trí nhớ của tôi, những lời lẽ của Phúc Âm thánh Mátthêu đoạn nói về Chúa Giêsu "khi thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt" (Mt 9, 36). Có bao người, trong ngoại vi đời sống hiện nay, "đang lầm than vất vưởng" và đợi chờ Giáo Hội, đợi chờ chúng ta ! Làm thế nào để họ tìm gặp được chúng ta ? Làm thế nào để chia sẻ với họ kinh nghiệm đức tin, kinh nghiệm tình yêu của Thiên Chúa, và kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu ? Đó là trách nhiệm của các cộng đoàn chúng ta và mục vụ của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng không nhằm mục đích "trinh bầy một sự phân tích chi tiết và đầy đủ thực tế đương đại" (Evangelii gaudium, 51), mà ngài mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy gom nhặt các dấu chỉ thời đại mà Chúa đã không ngừng gửi đến cho chúng ta. Nhiều dấu chỉ hiện diện trong các cộng đoàn của chúng ta và Chúa đặt để cho chúng ta sử dụng biết bao cơ hội nhận biết sự hiện diện của Người trên thế gian ngày hôm nay ! Ở giữa những tiếng đồn thổi tiêu cực, như mọi khi, thường rất ồn ào, chúng ta cũng thấy những dấu chỉ đang thổi một làn gió hy vọng và mang đến cho chúng ta lòng can đảm. Những dấu chỉ đó, như đã nói trong hiến chế mục vụ Gaudium et spes, phải được đọc lại dưới ánh sáng Phúc Âm (GS số 4 và 44) : đây là "thời thuận lợi" (x. 2 Cr 6, 2), chính là thời điểm của sự dấn thân cụ thể, đó là bối cảnh trong đó chúng ta được kêu gọi làm việc để làm cho Nước Chúa bành trướng (Ga 4, 35-36). Khốn nỗi, chúng ta thấy biết bao là ngèo đói, là cô đơn trên thế giới ngày nay ! Biết bao người phải sống trong nỗi đau đớn to lớn và cầu xin Giáo Hội hãy là dấu chỉ cho sự đồng hành, cho lòng tốt, cho tình liên đới và cho lòng thương xót của Chúa". Điều này là một mục tiêu, đặc biệt được giao phó cho tất cả những người có trách nhiệm về mục vụ : các giám mục trong các giáo phận của các ngài, cha sở trong giáo xứ của ngài, các phó tế trong công tác phục vụ bác ái, các giáo lý viên trong sứ vụ truyền đạt đức tin của họ… Chung cuộc, tất cả những người đã dấn thân trong những bộ phận mục vụ khác nhau đều được kêu gọi hãy công nhận và đọc những dấu chỉ thời đại này để đưa ra một lời giải đáp phù hợp và rộng lượng. Trước biết bao đòi hỏi mục vụ, trước biết bao phong phú của những con người nam và nữ, chúng ta có nguy cơ lo sợ và khép kín mình lại trong một thái độ sợ hãi và thủ thế. Từ đó sinh ra cám dỗ tự mãn và chủ nghĩa giáo quyền, quy tắc hóa đức tin thành quy định và chỉ thị, như các kinh sư, những người pharisêu và những luật sĩ ở thời Chúa Giêsu. Tất cả sẽ minh bạch, trật tự, nhưng giáo dân đi tìm kiếm, vẫn tiếp tục đói khát Thiên Chúa. Tôi cũng đôi khi nói rằng, Giáo Hội giống như một bệnh viện dã chiến : bao nhiêu người bị thương đợi chờ chúng ta để được tháp tùng, cầu xin chúng ta những điều họ cầu xin với Chúa Giêsu : đồng hành và gần gũi. Với thái độ của các kinh sư, các luật sĩ, các người pharisêu, chúng ta sẽ không bao giờ có thể cho họ một chứng cứ gần gũi được.
Có một từ thứ hai làm tôi suy nghĩ. Khi Chúa Giêsu phán về người chủ vườn nho, cần mướn thợ, đi ra vào những giờ khác nhau trong ngày để gọi thợ vào làm vườn nho của ông (Mt 20, 1-16). Ông không chỉ đi ra một lần. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu phán ông ta ra ngoài ít là 5 lần : vào lúc tinh mơ, lúc 9 giờ, lúc giữa trưa, lúc 3 giờ, và lúc 5 giờ chiều – chúng ta còn có thời gian thấy Ngưòi đến với chúngg ta ! – Có biết bao nhu cầu trong vườn nho và ông này đã gần như bỏ hết thời gian để đi ra ngoài đường phố, quảng trường tìm thợ. Anh chị em hãy nghĩ về những người thợ vào giờ chót : chẳng có ai gọi họ cả; ai biết được họ đã cảm thấy như thế nào, bởi vì cuối ngày, họ sẽ chẳng có gì mang về nhà để nuôi sống các con mình. Những người trách nhiệm mục vụ có thể tìm thấy một tấm gương trong dụ ngôn này. Đi ra vào những lúc khác nhau trong ngày để tới gặp những người đang tìm kiếm Chúa. Tới với những người yếu hèn nhất và những người bần cùng nhất để cho họ một sự nâng đỡ, để họ cảm thấy có ích trong vườn nho của Chúa, dù rằng chỉ trong một giờ mà thôi.
Một khía cạnh khác : xin anh chị em vui lòng, chúng ta đừng đi theo tiếng của những mỹ nhân ngư kêu gọi hãy làm cho mục vụ trở thành một chuỗi sáng kiến xung năng, không thể thu hoạch được điều cốt yếu của sự dấn thân cho việc truyền bá Phúc Âm. Đôi khi hình như chúng ta lo lắng gia tăng các hoạt động, thay vì chú tâm đến đến những con người và đến việc họ gặp gỡ với Thiên Chúa. Một nền mục vụ mà không có sự chú tâm này, sẽ dần dần trở thành cằn cỗi. Chúng ta đừng quên làm như Chúa Giêsu với các môn đệ của Người : sau khi các ông đã ra đi mang theo Phúc Âm đến những làng mạc, họ đã trở về hả hê với những thành công của mình : nhưng Chúa Giêsu đã kéo họ ra một nơi thanh vắng để ở cùng nhau (Mc 6,31). Một nền mục vụ mà không cầu nguyên, không suy niệm sẽ không thể nào đến với lòng người. Mục vụ sẽ dừng ở bề mặt mà không làm cho hạt giống Lời Chúa có thể bén rễ và nẩy mầm, tăng trưởng và sinh hoa, kết quả (Mt 13, 1-25).
Tôi biết rằng anh chị em hết thảy đã làm việc nhiều, vi thế mà tôi muốn để lại cho anh chị em một lời cuối quan trọng : nhẫn nại. Nhẫn nại và kiên trì. Ngôi Lời Thiên Chúa đã "nhẫn nại" đi vào nhập thể, và như vậy, đến tận cái chết trên Thánh Giá. Nhẫn nại và kiên trì. Chúng ta không có "chiếc đũa thần" cho mọi chuyện, nhưng chúng ta có lòng tin tưởng nơi Chúa là Đấng đồng hành cùng chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trong những khó khăn cũng như trong những thất vọng thường hay xuất hiện trong công việc mục vụ của chúng ta, không bao giờ được mất tin tưởng nơi Chúa và nơi cầu nguyện vốn có khả năng nâng đỡ mục vụ. Dù sao thì chúng ta cũng đừng quên rằng sự giúp đỡ cho chúng ta, trước hết đến từ những người gần gũi với chúng ta. Chúng ta hãy làm điều tốt mà không chờ đợi được ân thưởng. Chúng ta hãy gieo hạt và hãy làm chứng. Làm chứng là điều bắt đầu Phúc Âm hóa, đụng chạm đến lòng người và làm thay đổi lòng người. Lời nói mà không kèm theo làm chứng không ăn thua và không làm được gì ! Sự làm chứng là điều có hiệu quả và làm cho lời nói có giá trị.
Cảm ơn vì sự dấn thân của anh chị em ! Tôi ban phép lành cho anh chị em và xin anh chị em vui lòng, đừng quên cầu nguyện cho tôi bởi vì tôi phải nói nhiều và cả tôi nữa cũng phải mang đến chút ít chứng ngôn Kitô giáo ! Cảm ơn.
Chúng ta hãy cầu nguyện Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ Truyền Giảng Phúc Âm : Kính mừng Maria…
Bản dịch tiếng Pháp : Hugues de Warren (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(22 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-paroles-sans-temoignage-ne-servent-a-rien

 

Các ông bà là những người thành thạo về Thiên Chúa
Bài giảng lễ chúc thọ (toàn văn) 

 

Rôma – 28/9/2014 (Zenit.org)
Như các thánh Elizabeth và Zacharias, các bậc lớn tuổi phải là "những người thành thạo về đức tin, thành thạo về Thiên Chúa, thành thạo về cái niềm hy vọng này đến từ Người : thế giới đang cần chính là điều này, ở mọi thời đại", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định.
Đức Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ ở giữa những người lớn tuổi của 5 châu lục, trên quảng trường thánh Phêrô, sáng nay 28/9/2014, lúc 10 giờ 30. Có chừng 100 linh mục lớn tuổi trên toàn thế giới đã đồng tế với ngài.
Trước Thánh Lễ, lúc 9 giờ 30, Đức Giáo Hoàng đã tham dự một cuộc hội ngộ-đối thoại với những người lớn tuổi trong khuôn khổ của biến cố "Chúc thọ", do Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình cổ vũ. ĐGH Biển Đức XVI cũng có mặt. 
"Tình yêu Chúa Giêsu và Đức Chúa Cha dẫn tới sự viên mãn của tình yêu đối với cha mẹ, anh em, với các ông bà, nó cải tiến quan hệ gia đình", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh trong bài giảng của ngài.
"Tương lai của một dân tộc đương nhiên cần có sự hội ngộ này : những người trẻ cống hiến sức mạnh để làm cho dân tộc tiến lên và những bậc trưởng thượng tăng cường cho sức mạnh đó bằng ký ức và sự khôn ngoan dân dã", ngài nhấn mạnh : "Không có tương lai cho dân tộc nếu không có cuộc hội ngộ này giữa các thế hệ, nếu con cái không biết ơn khi thừa hưởng được sự trải nghiệm đời sống từ tay của cha mẹ mình".
Nếu đôi khi có "những thế hệ người trẻ, vì những lý do lịch sử và văn hóa phức tạp, đã cảm thấy có nhu cầu mạnh mẽ được sống tự lập đối với cha mẹ", tuy thế, "nếu cuộc hội ngộ sau đó không được nối lại, nếu một sự cân bằng giữa các thế hệ, mới mẻ và phong phú, không được tìm thấy lại, sẽ kéo theo một sự bần cùng hóa dân tộc trầm trọng, và cái tự do đang được xã hội tôn sùng, chỉ là một sự tự do giả hiệu, hầu như lúc nào cũng có thể biến thành độc đoán", ngài cảnh báo.
A.K.
Bài giảng lễ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe đọc, chúng ta đón nhận trong hiện tại như bài Phúc Âm của sự hội ngộ giữa người trẻ và người già : một cuộc gặp gỡ đầy vui mừng, đầy đức tin và đầy hy vọng. Đức Maria trẻ, rất trẻ. Bà Elizabeth lớn tuổi, nhưng nơi bà lòng thương xót của Thiên Chúa đã thể hiện và, từ 6 tháng nay, với chồng bà là ông Zacharias, bà đang đợi sinh con. Đức Maria, trong hoàn cảnh này, cũng chỉ cho chúng ta con đường : đi tới gặp gỡ người chị họ lớn tuổi, ở cùng bà ấy, đương nhiên là để giúp đỡ bà, nhưng nhất là để học hỏi nơi bà, lớn tuổi hơn, sự khôn ngoan của cuộc đời.
Bài đọc thứ nhất, với một sự biểu hiện đa dạng, nhắc tới Điều Răn Thứ Tư : "Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20, 12). Không có tương lại cho dân tộc nếu không có sự hội ngộ giữa các thế hệ này, nếu con cái không biết ơn khi thừa hưởng được sự trải nghiệm đời sống từ tay của cha mẹ mình. Và trong sự biết ơn này đối với người đã truyền cho mình sự sống, cũng có lòng biết ơn đối với Đức Chúa Cha ở trên trời.
Đôi khi có "những thế hệ người trẻ, vì những lý do lịch sử và văn hóa phức tạp, đã cảm thấy có nhu cầu mạnh mẽ được sống tự lập đối với cha mẹ, có thể nói là để rũ bỏ gia sản của thế hệ trước. Đó cũng như một phút tuổi trẻ nổi loạn. Nhưng nếu sự gặp gỡ sau đó không được nối lại, nếu một sự cân bằng giữa các thế hệ, mới mẻ và phong phú, không được tìm thấy lại, sẽ kéo theo một sự bần cùng hóa dân tộc trầm trọng, và cái tự do đang được xã hội tôn sùng, chỉ là một sự tự do giả hiệu, hầu như lúc nào cũng có thể biến thành độc đoán
Một thông điệp tương tự cũng được gửi đến chúng ta là bài khuyên nhủ của thánh Phaolô Tông Đồ, gửi cho tín hữu Timotê và, qua ông, gửi cho cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu đã không bãi bỏ luật gia đình và sự hạnh thông giữa các thế hệ, nhưng Người đã mang nó đến chỗ viên mãn. Chúa đã hình thành một gia đình mới, trong đó quan hệ với Người và sự hoàn thành Thánh Ý Đức Chúa Cha quan trọng hơn quan hệ máu mủ. Nhưng tình yêu mến đối với Chúa Giêsu và Đức Chúa Cha sẽ dẫn tình yêu cha mẹ, anh em, ông bà đển chỗ viên mãn, nó làm mới lại các quan hệ gia đình bằng nhựa sống Phúc Âm và Chúa Thánh Thần. Chính như thế mà thánh Phaolô nhắn gửi ông Timôtê, vốn là mục tử và là Thượng Phụ của cộng đoàn, phải tôn trọng những người lớn tuổi và các thành viên trong gia đình, và ngài kêu gọi ông hãy làm điều đó với một thái độ con cái : coi các cụ ông "như thể là cha", "các cụ bà như thể là mẹ" (x. 1 Tm 5, 1). Người đứng đầu cộng đoàn cũng không được miễn trừ làm theo ý này của Thiên Chúa, hơn nữa, đức ái của Chúa Kitô thúc đẩy người đứng đầu này phải làm điều đó với một lòng yêu mến to lớn hơn. Như Đức Trinh Nữ Maria, mặc dù đã là Mẹ Đấng Mêsia, vẫn cảm thấy được thôi thúc bởi tình yêu Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ, chạy đến với bà chị họ lớn tuổi.
Chúng ta hãy trở lại với "thánh tượng" đầy vui tươi và hy vọng, đầy đức tin, đầy đức ái. Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Trinh Nữ Maria, khi ở nhà bà Elizabeth, đã nghe bà, cùng với chồng bà là ông Zacharias, cầu nguyện với những lời của Thánh Vịnh hát đôi của ngày hôm nay : "Lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân… xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi khi sức lực suy tàn… cả lúc già nua, da mồi tó bạc, lạy Thiên Chúa xin đừng bỏ rơi con, để con tường thuật quyền năng của Chúa cho thế hệ này được rõ, và dũng lực của Ngài cho thế hệ mai sau" (Tv 71, 5.9.8) Cô Gái Maria đã nghe và đã giữ lấy tất cả trong lòng. Sự khôn ngoan của bà Elizabeth và ông Zacharias đã làm phong phú tâm trí non trẻ của Cô: ông bà không phải là những người thành thạo về việc làm mẹ và làm cha, bởi vì đối với ông bà đây cũng là lần thai nghén đầu tiên, nhưng ông bà đã là người thành thạo về đức tin, thành thạo về Thiên Chúa, thành thạo về niềm hy vọng đến từ Người : và ở mọi thời đại, đây là điều mà thế giới cần có. Đức Mẹ Maria đã biết nghe những người họ hàng lớn tuổi và đầy ngạc nhiên, Mẹ đã lợi dụng được sự khôn ngoan của ông bà, và sự khôn ngoàn này rất quý giá đối với Mẹ, trên hành trình làm người phụ nữ, làm người vợ và làm người mẹ.
Chính như thế mà Đức Trinh Nữ Maria đã chỉ cho chúng ta con đường : con đường gặp gỡ giữa những người trẻ và những người già. Tương lai của một dân tộc đương nhiên là cần có sự gặp gỡ này : những người trẻ cống hiến sức mạnh để làm cho dân tộc tiến lên và những bậc trưởng thượng tăng cường cho sức mạnh đó bằng kỷ ức và sự khôn ngoan dân dã.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(28 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-grands-parents-experts-de-dieu

 

Anbani : Trung tâm Bêthani, cuộc gặp gỡ các trẻ em và thanh thiếu niên
Bí quyết của một cuộc đời thành công : yêu thương và hiến thân vì tình yêu (toàn văn)

 

Rôma – 21/9/2014 (Zenit.org)
"Bí quyết của một cuộc sống thành công là (…) yêu thương và hiến thân cho tình yêu", Đức Giáo Hoàng giải thích cho các bạn trẻ của Trung Tâm Bêthani nơi ngài đã gặp các em hôm Chúa Nhật này, 21/9/2014 ở cách Tirana (An-ba-ni) khoảng 30 cây số.
Như vậy, Đức Giáo Hoàng nói thêm, "những lựa chọn chung cuộc về cuộc sống không còn gây sợ hãi, mà chúng đã xuất hiện trong ánh sáng thực sự của chúng, như một cách thực hiện đầy đủ tự do của mình.
Ngài đã nhấn mạnh đến một mối nguy hiểm chết người : "Điều thiện trả công vô cùng nhiều hơn tiền bạc, (tiền bạc) trái lại, thường làm thất vọng, bởi vì chúng ta đã được tạo dựng để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và để hiến tặng lại người khác, chứ không để đo lường mỗi chuyện trên cơ sở tiền bạc và uy quyền. Đó là mối nguy hiểm có thể giết chết tất cả chúng ta".
Biết rằng lòng sùng kính của người Anbani đối với thánh Antôn thành Pađôva, quan thầy của thánh đường Trung Tâm, Đức Giáo Hoàng đã tặng một bức tượng Thánh An-tôn và Trung Tâm Bêthani, được thành lập năm 1990, tại Ý, ở Verona, và nó đã được du nhập vào Anbani năm 1998 : đó là lần đầu tiên nó được xây dựng bên ngoài nước Ý. Trung tâm này của Bubq Fushe-Kruje được sinh ra năm 1999, bởi sáng kiến của bà Antônia Vitale.
Đêm đã xuống lúc quá 19 giờ, khi Đức Giáo Hoàng bước ra khỏi thánh đường Thánh Antôn của Trung Tâm, chào biệt các em và những người thiện nguyện một lần nữa khi họ ra tiễn đưa và từ giã các giám mục dưới những tràng vỗ tay.
Đức Giáo Hoàng sau đó đã rời đi bằng xe hơi ra phi trường Mẹ Têrêxa để có cuộc gặp ngắn với Thủ Tướng Edi Rama và dự lễ nghi tiễn biệt, không có đọc diễn văn.
A.B.
Bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Các bạn thân mến của Trung Tâm Bêthni,
Tôi hết lòng cảm ơn các bạn vì sự đón tiếp đầy vui tươi ! Và nhất là, tôi cảm ơn các bạn vì sự đón nhận mà các bạn cống hiến nơi đây mỗi ngày cho nhiều em bé và các thiếu niên cần sự săn sóc, tình âu yếm, cần một bầu khí thanh thản và những con người thân thiện là những nhà giáo dục đích thực, một gương sống và nâng đỡ.
Trong những nơi chốn như ở đây, tất cả chúng ta đều được xác nhận trong đức tin, được giúp đỡ để tin, bởi vì chúng ta nhìn thấy đức tin được thể hiện thành bác ái cụ thẻ. Chúng ta thấy đức tin mang lại ánh sáng và hy vọng trong những tình trạng nguy khốn; chúng ta nhìn thấy đức tin sáng lên trong lòng của những người được chạm đến bởi Thần Khí của Chúa Giêsu, Đấng đã phán : "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy" (Mc 9, 37).
Đức tin này tác động trong bác ái di dời cả núi thờ ơ, hoài nghi và lãnh đạm, và mở lòng, mở tay để làm điệu thiện và để lan truyền rộng ra. Qua những cử chỉ khiêm nhường và đơn sơ phục vụ những em nhỏ, sẽ được truyền đi Tin Mừng Chúa Giêsu đã phục sinh và sống giữa chúng ta. Trung Tâm này, ngoài ra, làm chứng cho sự sống chung hòa bình và huynh đệ giữa những con người thuộc các sắc dân khác nhau và thuộc những tín ngưỡng khác nhau là có thể được.
Ở đây, những khác biệt không ngăn cản được sự hài hòa, niềm vui và hòa bình, chúng trở thành cơ hội cho một sự hiểu biết sâu xa hơn, và một sự thông cảm lẫn nhau. Những kinh nghiệm tôn giáo khác nhau mở ra cho lòng yêu thường đầy tôn trọng và có thật đối với tha nhân : mỗi cộng đồng tôn giáo thể hiện bằng tình yêu chứ không bằng bạo lực, không có sự xấu hổ vì lòng tốt ! Cho những ai làm cho nó lớn lên nơi chính mình, lòng tốt hiến tặng một lương tâm an bình, một niềm vui sâu đậm dù là ở giữa những khó khăn và những hiểu lầm.
Cho đến tận những xúc phạm phải chịu đựng, lòng tốt cũng không phải là sự yếu hèn, mà là sức mạnh đích thực có khả năng từ chối sự trả thù. Sự thiện có một cái giá nội tại của nó và làm cho chúng ta gần với Thiên Chúa, Đức Vua Thiện. Người làm chúng ta suy nghĩ như Người, làm cho chúng ta thấy được thực tế đời sống chúng ta dưới ánh sáng của dự án tình yêu của Người trên mỗi người chúng ta, cho chúng ta nếm trải những niềm vui nhỏ bé mỗi ngày và nâng đỡ chúng ta trong những khó khăn và trong các thử thách.
Điều thiện trả công vô cùng hậu hĩnh hơn tiền bạc, (tiền bạc )trái lại, thường làm thất vọng, bởi vì chúng ta đã được tạo dựng để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và để hiến tặng lại cho người khác, chứ không để đo lường mỗi chuyện trên cơ sở tiền bạc và uy quyền. Đó là mối nguy hiểm có thể giết chết tất cả chúng ta
Các bạn thân mến, trong lời chào mừng, bà Giám Đốc đã nhắc lại những giai đoạn đã trải qua của quý Hội và những công trình được sinh ra từ trực giác của vị nữ sáng lập, Bà Antonietta Vitale – mà tôi thân mến chào mừng và cảm ơn vì sự đón tiếp của bà – và đã làm nổi bật sự giúp đỡ của những mạnh thường quân và những xuất vốn của nhiều sáng kiến khác nhau. Bà đã kể ra nhiều trẻ em được đón nhận và săn sóc với lòng thương yêu.
Ông Mirjan đã làm chứng về trải nghiệm cá nhân mình, về sự thán phục và tri ân vì một cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cuộc sống của ông và đã mở ra những chân trời mới, khiến ông gặp được những người bạn mới và một Người Bạn vĩ đại và hoàn mỹ hơn tất cả : Chúa Giêsu. Ông đã nói một điều rất ý nghĩa về những người thiện nguyện đang làm việc ở đây; ông nói : "Từ 15 năm nay, họ đã vui vẻ hy sinh vì tình yêu Chúa Giêsu và vì tình yêu chúng tôi". Đây là một câu nói cho thấy sự hiến thân vì tình yêu Chúa Giêsu dấy lên niềm vui và hy vong là nhường nào, và sự phục vụ anh em biến đổi trong sự kiện là cùng ngự trị nơi Thiên Chúa là nhường bao.
Những lời của ông Mirjan-Phaolô dường như có vẻ ngược đời đối với một phần đông trên thế giới chúng ta, vốn khó mà hiểu được vì họ điên cuồng đi tìm của cải trần gian, trong chiếm hữu và trong giải trí coi đó như mục đích, là chìa khóa của cuộc sống mình, trái lại chỉ tìm đươc tha hóa và choáng ngợp.
Bí mật của một cuộc sống thành công, ngược lại, là yêu thưong, là tự hiến vì tình yêu. Như vậy, người ta tìm được sức mạnh để "vui vẻ hy sinh" và sự dấn thân càng mạnh mẽ thì niềm vui cang trở nên to lớn hơn.
Như vậy, những chọn lựa chung cuộc của cuộc đời không còn làm sợ hãi nữa, nhưng chúng xuất hiện trong ánh sáng đích thực của chúng, như một cách thực hiện đầy đủ quyền tự do riêng của mình.
Cầu xin Chúa và Mẹ Người, Đức Trinh Nữ Maria, chúc phúc lành cho quý Hội, cho Trung Tâm Bêthani này và những trung tâm khác mà đức bác ái đã làm mọc lên và Chúa Quan Phòng đã làm tăng trưởng. Xin các Đấng ban phép lành cho tất cả những người thiện nguyện, những mạnh thường quân và tất cả các trẻ em và thanh thiếu niên được đón nhận.
Cầu xin Thánh Quan Thầy của các bạn, thánh Antôn thành Pađôva đồng hành với các bạn trên hành trình của các bạn.
Các bạn hãy tin tưởng tiếp tục phục vụ Chúa Giêsu trong người nghèo và những người bị bỏ rơi và cầu nguyện Người để cho mọi người mở lòng, mở trí cho sự thiện, cho bác ái hành động, nguồn mạch niềm vui đích thực và có thật.
Tôi xin các bạn vui lòng cầu nguyện cho tôi và tôi hết lòng ban phép lành cho các bạn.
(c) Bản dịch tiếng Pháp chính thức của Tòa Thánh
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch tiếng Việt
(21 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/albanie-centre-bethanie-rencontre-avec-les-enfants-et-les-jeunes

 

Giết người nhân danh Thiên Chúa là một "tội trọng phạm thánh"
"Tôn giáo đích thực là nguồn mạch của hòa bình chứ không phải của bạo lực !" (toàn văn)

 

Rôma 21/9/2014 (Zenit.org)
Lần thứ hai trong ngày Chúa Nhật 21/9 này, tại Tirana, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đả kích việc sử dụng bạo lực nhân danh Thiên Chúa (lần đầu trong bài diễn văn đọc tại phủ tổng thống), để làm nổi bật gương sáng, quan trọng "đối với thế giới", là sống chung hòa bình của các vùng ở An-ba-ni.
Việc sử dụng Danh Thiên Chúa này là một tội trọng "phạm thánh", ngài tố cáo trước các đại biểu của các dòng tín ngưỡng Kitô giáo khác nhau và các đại biểu của các tôn giáo khác trong nước mà ngài đã gặp lúc 16 giờ, tại trường Đại Học Công Giáo ở Tirana "Đại Học Đức Bà chỉ bảo đàng lành".
"Tôn giáo đích thực là nguồn mạch của hòa bình chứ không phải của bảo lực ! Không ai có thể sử dụng Danh Thiên Chúa để tiến hành bạo lực ! Giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội trọng phạm thánh ! Kỳ thị nhân danh Thiên Chúa là vô nhân đạo", Đức Giáo Hoàng tuyên bố.
Ngài mời gọi thực hiện cụ thể điều mà ngài gọi là "tự do căn bản" : "Tự do tôn giáo không chỉ là một quyền được bảo đảm đơn độc bởi hệ thống luật pháp hiện hành, vốn cũng là cần thiết; nhưng nó phải là một không gian chung, một bầu khí tương kính và hợp tác được xây dựng với sự tham gia của tất cả mọi người, kể cả những người không có một tôn giáo nào cả".
Đức Giáo Hoàng chỉ ra hai con đường để thực hiện nó một cách hữu hiệu. Một mặt, "nhìn nhận nơi mọi người nam cũng như nữ, kể cả những người không thuộc về truyền thống tôn giáo của chính mình, không phải là đối nghịch, càng không phải là kẻ thù, mà đúng là anh chị em ruột thịt của mình", nói cách khác, đó là tình huynh để phổ quát.
Mặt khác, "dấn thân cho công ích", như vậy, đây là tầm vóc xã hội và chính trị của đức tin vào Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng khuyến khích về hy vọng, về quan tâm đến "những nhu cầu của người nghèo" và về việc "tìm ra những con đường đi tới công bằng xã hội rộng lớn hơn, tới một sự phát triển kinh tế bao quát !", bởi vì, ngài nói : "người ta càng phục vụ người khác, thì càng có tự do !". Lời nói này càng có trọng lượng trong lúc mà An-ba-ni đang nỗ lực đạt đến những tiêu chuẩn Âu Châu về phát triển để gia nhập Liên Hiệp Âu Châu. 
Đức Giáo Hoàng đã ứng khẩu một đoạn về tính quan trọng của sự kiện đừng phản bội căn tính của mình : đối thoại "tất nhiên là đòi hỏi căn tính", bởi vì "điều quan trọng nhất, chính là cùng nhau bước đi mà không phản bội căn tính của mình, không che đấu căn tính đó, không giả hình".
A.B.
Bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Các bạn thân mến,
Tôi thật sự sung sướng về cuộc gặp gỡ này, đã tập họp những người trách nhiệm các dòng tín ngưỡng hiện hữu tại An-ba-ni. Với lòng tôn kính sâu đậm, tôi chào mừng mỗi người trong quý vị và các cộng đoàn mà quý vị đại diện; và tôi hết lòng cảm ơn Đức cha Massafra về những lời của giới thiệu và dẫn nhập của Đức cha. Sự có mặt của quý vị tại đây thật là quan trọng : đó là chỉ dấu của một cuộc đối thoại mà quý vị trải nghiệm hàng ngày, để tìm cách xây đắp giữa quý vị những quan hệ huynh đệ và hợp tác, có ích cho toàn thể xã hội.
Đáng buồn là An-ba-ni đã phải chứng kiến nhiều bạo lực và nhiều thảm họa do sự cưỡng bách khai trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống cá nhân và cộng đồng. Khi, nhân danh một chủ thuyết, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuối cùng thì người ta sẽ tôn thờ những thần tượng, và rất nhanh chóng, chính con người sẽ bị lầm lạc, phẩm giá của mình bị chà đạp, các quyền của mình bị xâm phạm. Quý vi biết rõ, sự cấm đoán tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo đã dẫn đến những tàn nhẫn như thế nào. Và từ những thương tích đó, một nhân bản nghèo nàn toàn diện đã hình thành như thế nào, bởi vì bị tước đi niềm hy vọng và chỗ dựa vào các lý tưởng. 
Các thay đổi xẩy tới từ những năm 90 của thế kỷ trước đã như một hiệu ứng tích cực là tạo ra những cơ hội cho một sự tự do tôn giáo có thực. Điều này đã đem lại cho mỗi cộng đồng khả năng làm sống lại những truyền thống vốn chưa bao giờ bị dập tắt, mặc dù những bách hại hung dữ, và đã giúp cho mọi người có thể cống hiến, cũng từ niềm xác tín tôn giáo của chính mình, một sự đóng góp tích cực vào việc tái thiết đạo đức, trước khi tái thiết kinh tế cho đất nước.
Trên thực tế, như thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định trong chuyến viếng thăm lịch sử tại An-ba-ni năm 1993, "tự do tôn giáo […] không chỉ là món quà quý giá của Chúa ban cho những ai đã nhận được ơn đức tin : nó còn là quà tặng cho tất cả mọi người bởi vì nó là sự bảo đảm căn bản của mọi sự thể hiện quyền tự do […]. Không có gì là không nhắc nhở chúng ta, cũng như đức tin, rằng, nếu chúng ta có duy nhất một Tạo Hóa, thì như thế chúng ta hết thẩy đều là anh em ! Như vậy, tự do tôn giáo là một thành trì chống lại độc tài toàn trị và một sự đóng góp mang tính quyết định vào tình huynh đệ nhân loại" (Thông điệp gửi quốc gia An-ba-ni, 25/4/1993). 
Nhưng phải lập tức thêm rằng : "Tự do tôn giáo đích thực ghê tởm những cám dỗ bất dung và bè phái và cổ xuý những thái độ đối thoại tương kính và mang tính xây dựng" (ibid). Chúng ta không thể không thừa nhận rằng, hiện tượng bất dung coi những người không có cùng tín ngưỡng với mình là một kẻ thù đặc biệt nham hiểm, đáng tiếc đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Với tư cách là những tín hữu, chúng ta phải đặc biệt cảnh giác để cho lòng sùng đạo và tính đạo đức mà chúng ta trải nghiệm với lòng xác tín và say sưa làm chứng được luôn thể hiện bằng những thái độ xứng đáng với mầu nhiệm mà chúng ta tôn kính, quyết tâm từ bỏ mọi hình thức sử dụng méo mó tôn giáo vì chúng là dối trá và vì chúng không xứng đáng với Thiên Chúa và với cả loài người. Tôn giáo đích thực là nguồn mạch của hòa bình chứ không phải của bạo lực ! Không ai có thể sử dụng Danh Thiên Chúa để tiến hành bạo lực ! Giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội trọng phạm thánh ! Kỳ thị nhân danh Thiên Chúa là vô nhân đạo.
Từ quan điểm này, tự do tôn giáo không phải chỉ là một quyền được bảo đảm đơn độc bởi hệ thống luật pháp hiện hành, vốn cũng cần thiết ; nhưng nó phải là một không gian chung, một bầu khí tương kính và hợp tác được xây dựng với sự tham gia của tất cả mọi người, kể cả những người không có một tôn giáo nào cả. Tôi mạn phép đưa ra hai thái độ có thể đặc biệt có ích trong vìệc phát huy quyền tự do căn bản này.
Thái độ thứ nhất, chính là thái độ nhìn thấy trong mọi người nam cũng như nữ, kể cả những người không thuộc về truyền thống tôn giáo của chính mình, không phải là đối nghịch, càng không phải là kẻ thù, mà đúng là anh chị em ruột thịt của mình. Người tin chắc vào những xác tín riêng của mình, không cần khống chế, không cần tạo sức ép lên người khác : người này biết rằng chân lý có sức tỏa chiếu riêng của nó. Thật ra, tất cả chúng ta đều là những khách hành hương trên trái đất này, và trong chuyến lữ hành của chúng ta, trong lúc chúng ta ao ước chân lý và vĩnh hằng, chúng ta không sống như những thực thể tự trị và tự túc, cũng không như những cá nhân hay những nhóm quốc gia, văn hóa hay tôn giáo; mà chúng ta sống nhờ lẫn nhau, chúng ta nhờ vào sự giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi truyền thống tôn giáo, ngay cả trong nội bộ của họ, đều phải có thể trả lẽ về sự sống của người khác.
Một thái độ thứ nhì là sự dấn thân cho công ích. Mỗi lần mà sự gia nhập vào tuyền thống tôn giáo của chính mình làm nẩy mầm một dịch vụ khả tín hơn, rộng lượng hơn, bất vụ lợi hơn cho toàn thể xã hội, là mổi lần có một sự thực thi đích thực và một sự phát triển quyền tự do tôn giáo. Quyền này không chỉ thể hiện như một không gian tự chủ đòi hỏi chính đáng; mà còn như một tiềm lực làm phong phú cho gia đình nhân loại bằng sự thực thi nó từng bước. Càng phục vụ người khác, càng được tự do hơn !
Hãy nhìn quanh chúng ta : có biết bao nhiêu là những nhu cầu của người nghèo, xã hội của chúng ta còn phải làm biết bao chuyện để tìm được những con đường đi đến một sự công bằng xã hội rộng lớn hơn, đến một sự phát triển kinh tế bao quát ! Tâm hồn con người đang cần biết bao những ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm đời sống và lấy lại được hy vọng ! Trong những lãnh vực hoạt động này, con người nam và nữ được gợi hứng bởi những giá trị của truyền thống tôn giáo riêng của mình có thể cống hiến một sự đóng góp quan trọng, có thể nói là không thay thế được. Chính cũng ở đó là một thực địa đặc biệt phong phú để có thể dối thoại liên tôn.
Người ta không thể đối thoại mà không có căn tính, đó sẽ là đối thoại ma, không ích lợi gì. Mỗi người đều trung thành với can tính riêng của mình. Nếu không, thì sẽ là chủ nghĩa tương đối.
Mỗi người cống hiến sự chứng minh căn tính riêng của mình cho người khác, trong đối thoại với người khác. Điều quan trọng nhất là cùng nhau bước đi mà không phản bội căn tính của mình, không che dấu nó, không giả hình.
Không thể có hai phe : Công Giáo chống phần còn lại của nhân loại !
Các bạn thân mến, tôi kêu gọi quý vị hãy giữ gìn và phát triển truyền thống quan hệ tốt đẹp giữa các cộng đồng tôn giáo hiện hữu tại An-ba-ni, và hãy cảm thấy hợp nhất trong việc phụng sự tổ quốc thân yêu của quý vị. Quý vị hãy tiếp tục là dấu chỉ, không chỉ cho đất nước quý vị, của khả năng có những quan hệ thân thiện và hợp tác phong phú giữa các con người của những tôn giáo khác nhau. Và tôi muốn xin quý vị một đặc ân, đó là cũng cầu nguyện cho tôi. Tôi thật sự cần điều này. Cảm ơn. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho quý vị.
Bản dịch chính thức tiếng Pháp của Tòa Thánh.
Những phần ứng khẩu của Đức Giáo Hoàng được viết nghiêng, cần được so với văn bản chính.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch tiếng Việt.
(21 septembre 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/tuer-au-nom-de-dieu-un-grand-sacrilege-denonce-le-pape

Cộng đoàn Kitô hữu không đi ra thì sẽ chết
Bài giáo lý ngày 17 tháng 9 năm 2014 (Toàn Văn)

Rôma – 18/9/2014 (Zenit.org)
Cộng đoàn Kitô hữu không đi ra thì sẽ chết : đó là cụ thể lời cảnh báo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong buổi triều kiến chung ngày hôm qua, 17/9/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Sáng hôm thứ tư vừa qua, Đức Giáo Hoàng đã đọc bài giáo lý thứ bẩy của ngài dành nói về Hội Thánh : sau bài "Thiên hứng của Chúa", "Sự thống thuộc của các Kitô hữu vào Giáo Hội", "Giáo Hội là một giao ước mới và một dân tộc mới", "Giáo Hội là duy nhất và thánh thiện", "tính từ mẫu của Giáo Hội" và "Giáo Hội giáo dục về lòng nhân từ", Đức Giáo Hoàng đã suy niệm về "Giáo Hội công giáo và tông truyền".
"Nếu Giáo Hội được phát sinh là công giáo, điều này có ý nói rằng, Giáo Hội được sinh ra để "đi ra ngoài", được sinh ra là thừa sai", ngài đã giải thích khi lưu ý rằng "nếu các Tông Đồ cứ ở trong Phòng Tiệc Ly, không bước ra ngoài để mang đi Tin Mừng, thì Giáo Hội sẽ chỉ là giáo hội của một dân tộc, một thị xã, một phòng tiệc nào đó mà thôi".
Ngày hôm nay, những người đã chịu Phép Rửa đứng ở vị trí "tiếp nối liên tục với nhóm các Tông Đồ này, đã nhận lãnh Thánh Thần và đã "đi ra ngoài để giảng dạy" : Họ cũng được "sai đi để mang đến cho mọi người sự loan báo Tin Mừng này, cùng với những chỉ dấu của lòng nhân lành và quyền năng của Thiên Chúa", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Ngược lại, cộng đoàn mà "tự khép kín, giữa một số những người được chọn lựa" tự coi mình "là những người duy nhất được lãnh nhận sự chúc lành của Thiên Chúa", sẽ chết : "Trước tiên, họ sẽ chết về linh hồn và rồi đến thể xác, bởi vì họ không có sự sống, họ không có khả năng sinh ra sự sống, cho những người khác, cho những dân tộc khác : họ không là tông đồ".
Sau cùng, ngài kết luận, tham gia vào một Giáo Hội "công giáo và tông truyền", tức là "ôm lấy trong lòng sự cứu độ của nhân loại, là không cảm thấy dửng dưng hay bàng quan trước số phận của bao nhiêu anh em khác, mà mở lòng ra và liên đới với họ… tức là hiểu đưọc sự sung mãn, sự bù đắp, sự hài hòa của đời sống Kitô giáo, luôn gạt bỏ những lập trường riêng lẻ, đơn phương, tự khép kín".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em,
Tuần này, chúng ta tiếp tục nói về Giáo Hội. Khi chúng ta tuyên xưng đức tin, chúng ta khẳng định rằng Giáo Hội là "công giáo và tông truyền". Nhưng thực chất ý nghĩa hai từ này, hai tĩnh từ gán cho Giáo Hội là thế nào ? Giá trị của hai từ này đối với cộng đoàn Kitô hữu và với mỗi người chúng ta như thế nào ?
1. Công Giáo có nghĩa là hoàn vũ. Một định nghĩa đầy đủ và rõ ràng đã được một trong những Thượng Phụ của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu để lại cho chúng ta, là thánh Cyril thành Giêrusalem, khi ngài xác định : "Giáo Hội được gọi là công giáo, khẳng định có nghĩa là hoàn vũ, bởi sự kiện là Giáo Hội được truyền đạt cho tất cả mọi nguời từ đầu đến cuối trái đất; bởi vì mang tính phổ quát, không loại trừ ai, Giáo Hội giảng dạy tất cả mọi chân lý mà mọi người đều phải biết, những chân lý liên quan đến chuyện trên trời cũng như chuyện dưới đất".
Một chỉ dấu hiển nhiên tính công giáo của Giáo Hội là Giáo Hội nói đủ các thứ tiếng. Đó là hiệu quả của lễ Ngũ Tuần (Cv 2, 1-13) : quả vậy, Chúa Thánh Thần, Đấng đã làm cho các Tông Đồ và toàn Giáo Hội được mọi người đến tận cùng trái đất, nghe được Tin Mừng của Đấng Cứu Thế và tình yêu Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội được sinh ra là công giáo, nghĩa là "mang tính giao hưởng" ngay từ nguồn gốc, và chỉ có thể là công giáo, nhằm Phúc Âm hóa và gặp gỡ mọi người. Ngày hôm nay, người ta đọc được Lời Chúa bằng mọi thứ tiếng, mỗi người đều có một cuốn Tin Mừng để có thể đọc bằng ngôn ngữ của mình. Tôi xin trở lại ý tưởng này : Thật luôn là điều tốt khi mang theo bên mình một cuốn Phúc Âm nhỏ, trong túi hay trong xách tay, để thỉnh thoảng trong ngày, lấy ra mà đọc. Điều này có ích lợi cho chúng ta. Tin Mừng được loan truyền bằng mọi thứ tiếng, loan truyền Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô bởi vì Giáo Hội ở trên toàn thế giới. Chính vì thế mà người ta nói, Giáo Hội là công giáo, bởi vì Giáo Hội mang tính hoàn vũ.
2. Nếu Giáo Hội được sinh ra là công giáo, điều này có nghĩa là Giáo Hội được sinh ra để "đi ra ngoài", sinh ra là thừa sai. Nếu các Tông đồ cứ ở trong nhà Tiệc Ly, không bước ra ngoài để mang đi Tin Mừng, thì Giáo Hội chỉ là Giáo Hội của một dân tộc, của một thị xã, của một nhà tiệc nào đó mà thôi. Nhưng tất cả các ông đã bước ra ngoài cho toàn thế giới, ngay từ khi Giáo Hội mới sinh ra, vào lúc mà Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các ông. Giáo Hội sinh ra để "bước ra ngoại", nghĩa là thừa sai. Đó chính là điều chúng ta biểu lộ khi gọi Giáo Hội là "Tông Truyền", bởi vì tông đồ là người mang đến Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thành ngữ này nhắc nhở chúng ta, Giáo Hội được xây dựng trên các Tông Đồ và tiếp nối liên tục với các ông – chính các Tông Đồ đã đi và đã xây dựng những Giáo Hội mới, đã lập nên những giám mục mới và như thế, trên toàn thế giới, liên tục. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều tiếp nối liên tục với nhóm Tông Đồ này, đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và đã "bước ra ngoài" để giảng dậy, [chúng ta được] sai mang đến cho tất cả mọi người sự loan báo Tin Mừng này, cùng với những chỉ dấu nhân lành và quyền năng của Thiên Chúa. Điều này cũng bắt nguồn từ biến cố Lễ Ngũ Tuần : quả vậy, chính Chúa Thánh Thần đã vượt thắng mọi đề kháng, đã chiến thắng cám dỗ tự khép mình lại, giữa một số người được tuyển chọn, và tự coi mình là những người duy nhất nhận được sự chúc lành của Thiên Chúa. Thí dụ, nếu có người nói : "chúng tôi là những người duy nhất được tuyển chọn", cuối cùng họ sẽ chết. Trước tiên, họ sẽ chết về phần linh hồn và rồi về phần thể xác, bởi vì họ không có sự sống, họ không có khả năng sinh ra sự sống, cho những người khác, các dân tộc khác : họ không phải là tông đồ. Chính đích thực là Chúa Thánh Thần đã dẫn đưa chúng ta tới gặp anh em chúng ta, kể cả những người ở xa xôi nhất trong đầy đủ ý nghĩa của thành ngữ này, để họ có thể chia sẻ với chúng ta tình yêu, sự an bình, niềm vui mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã để lại cho chúng ta như là quà tặng.
3. Đối với cộng đoàn chúng ta và mỗi người trong chúng ta, là thành phần của Giáo Hội công giáo và tông truyền có nghĩa là gì ? Trước hết, điều này có nghĩa là ôm lấy trong lòng sự cứu độ của nhân loại, là không cảm thấy dửng dưng hay bàng quan trước số phận của bao nhiêu anh em khác, mà mở lòng ra và liên đới với họ. Ngoài ra, điều đó nghĩa là hiểu được sự sung mãn, sự bù đắp, sự hài hòa của đời sống Kitô giáo, luôn gạt bỏ những lập trường riêng lẻ, đơn phương, tự khép kín.
Là thành phần của Giáo Hội tông truyền có nghĩa là chúng ta ý thức được rằng đức tin của chúng ta được gắn chặt vào việc loan báo và làm chứng của chính các Tông Đồ Chúa Giêsu - gắn chặt vào đó, chính là một chuỗi dài xuất phát từ đó -; như vậy, chính là luôn cảm thấy mình được sai đi, cảm thấy mình được giao phó nhiệm vụ, trong niềm hiệp thông với những người kế vị các Tông Đồ, để loan báo, với con tim tràn đầy niềm vui, Đức Kitô và tình yêu của Người với toàn thể nhân loại. Ở đây, tôi muốn nhắc tới cuộc sống anh hùng của nhiều vị thừa sai, đã rời bỏ quê hương mình để đi loan báo Tin Mừng ở nhiều quốc gia khác, nhiều châu lục khác. Một vị Hồng Y người Brasil đã nói với tôi là ngài làm việc nhiều cho vùng Amazôn và khi ngài đi tới một nơi nào đó, trong một quốc gia hay một thành phố trong vùng này, ngài luôn đi tới nghĩa trang và ở đó, ngài thấy mộ của các vị thừa sai, các linh mục, các tu sĩ nam, nữ, đã tới giảng dạy Phúc Âm của các Tông Đồ. Và ngài nghĩ : tất cả những vị này đều có thể được phong thánh tức khắc, các vị đã bỏ lại tất cả để đi loan truyền Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về điều này. Có lẽ rằng trong các người trẻ, các thanh niên nam nữ đang có mặt ở đây, có người muốn trở thành thừa sai : các bạn hãy tiên lên đi ! Thật là đẹp khi mang đi Tin Mừng Chúa Giêsu. Các bạn nam cũng như nữ hãy can đảm lên !
Bây giờ, chúng ta hãy cầu xin Chúa canh tân nơi chúng ta ân điển của Thần Khí Người để mỗi cộng đoàn Kitô hữu và mỗi tín hữu trở thành sự thể hiện của Mẹ Thánh Giáo Hội công giáo và tông truyền.
Bản dịch tiếng Pháp : Hugues de Warren (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(18 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-communaute-chretienne-qui-ne-sort-pas-meurt

 

Hôn nhân là một người nam và một người nữ cùng nhau sánh bước
Bài giảng lễ cưới của hai mươi cặp vợ chồng trên quảng trường Thánh Phêrô  

Rôma – 14/9/2014 (Zenit.org)
"Hôn nhân là như thế đó : là sự đồng hành của một người nam và một người nữ, trong đó người đàn ông có nhiệm vụ giúp đỡ vợ mình ngày càng có nhiều nữ tính, và người đàn bà có nhiệm vụ giúp đỡ chồng mình ngày càng trở thành đàn ông hơn. Đó là sự hỗ tương của những khác biệt". Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích trong bài huấn đức nhân lễ hôn phối của hai mươi cặp do ngài chủ lễ trong ĐềnThánh Phêrô, ngày 14/9/2014 này, nhân Lễ Kính Thánh Giá vinh quang.
Sau đây là bản dịch chính thức ra tiếng Pháp bài huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô do Tòa Thánh phổ biến.
A.B.
Bài giảng Lễ Hôn Phối
Bài đọc thứ nhất nói với chúng ta về chuyến lữ hành của dân chúng trong sa mạc. Chúng ta hãy nghĩ về những người này đang lê bước, dưới sự hướng dẫn của ông Mô-sê; hầu hết đây là các gia đình : các ông cha, các bà mẹ, các con cháu, các ông bà; những người đàn ông và đàn bà ở mọi lứa tuổi, rất nhiều trẻ em, với những người già yếu đang cảm thấy mỏi mệt… Dân này khiến chúng ta nghĩ đến Giáo Hội lữ hành trong sa mạc thế gian ngày hôm nay, đến Dân Chúa, bao gồm phần đông là các gia đình.
Điều này làm chúng ta nghĩ đến các gia đình, đến gia đình chúng ta, đang lữ hành trên những nẻo đường đời, trong lịch sử của mỗi ngày… Gánh nặng liên tục của nhân loại trong một gia đình, là không cân đo đong đếm được : sự tương trợ, sự tháp tùng giáo dục, các quan hệ lớn lên cùng với sự tăng trưởng của các con người, sự chia sẻ những niềm vui và những khó khăn… Gia đình là nơi chốn đầu tiên chúng ta được đào tạo thành những con người và đồng thời gia đình là những "viên gạch" để xây dựng xã hội.
Trở lại với câu chuyện Thánh Kinh. Đến một độ nào đó "dân chúng đã không chịu đựng nổi cuộc lữ hành" (x. Ds 21, 4). Họ mệt mỏi, thiếu nước và chỉ có "manna" để ăn, một của ăn kỳ diệu, Thiên Chúa ban cho, nhưng dường như trong tình hình khủng hoảng lúc đó đã không đầy đủ. Vì thế, họ ta thán và oán trách Thiên Chúa và ông Mô-sê : "Tại sao lại đưa chúng tôi ra đi ?…" (x. Ds 21, 5).
Điều này khiến ta nghĩ đến các cặp vợ chồng "không chịu nổi hành trình" của cuộc đời hôn nhân và gia đình. Sự mỏi mệt trên đường trở thành một sự rã rời nội tâm; họ mất đi mùi vị của Hôn Nhân, họ không còn múc nước từ suối nguồn bí tích. Cuộc sống hàng ngày ttrở thành nặng nề "chán ngấy".
Trong thời điểm hỗn loạn đó -Thánh Kinh nói- rắn độc đã đến và cắn người, có nhiều người chết. Sự kiện này khiến dân chúng hối hận, xin lỗi ông Mô-sê và nhờ ông cầu xin Chúa để Người đuổi rắn đi. Ông Mô-sê nài xin Chúa và Người ban cho một phương thuốc : làm một con rắn bằng đồng, treo lên cột cao; ai nhìn lên con rắn này sẽ được chữa khỏi nọc độc chết người của lũ rắn.
Biểu tượng này có ý nghĩa gì ? Thiên Chúa không triệt bỏ loài rắn, nhưng Người ban cho một loại thuốc "giải độc" : qua con rắn bằng đồng, do ông Mô-se làm ra, Thiên Chúa truyền cho sức mạnh chữa lành, vốn là lòng thương xót của Người, mạnh hơn nọc độc của loài cám dỗ.
Chúa Giêsu, như chúng ta nghe trong Phúc Âm, đã đồng hóa Người với biểu tuợng này : quả vậy, Chúa Cha, vì tình thương, đã ban Người cho nhân loại, Người, Con Một, để cho loài người được sống (x. Ga 3, 13-17); Và tình thương bao la của Chúa Cha thúc đẩy Con của Người xuống thế làm người, làm tôi tớ, chịu chết vì chúng ta và chết trên cây thập giá; vì lẽ đó, Chúa Cha đã làm cho Người sống lại và đã ban cho Người sự thống trị toàn thể vũ trụ. Đó là sự diễn đạt của bài ca ngợi trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê (Pl 2, 6-11). Ai dâng mình cho Chúa Giêsu bị đóng đinh, sẽ nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa chữa khỏi nọc độc chết người của tội lỗi.
Phương thuốc mà Thiên Chúa ban cho dân chúng, đặc biệt cũng hữu hiệu cho các cặp vợ chồng "không còn chịu nổi hành trình" và đã bị cắn bởi những cám dỗ nản lòng, bất trung, suy thoái, bỏ rơi… Cũng cho họ, Chúa Cha đã ban Con Giêsu của Người, không phải để kết án họ, mà để cứu độ họ : nếu họ phó dâng cho Người, Người sẽ chữa khỏi cho họ bằng tình yêu nhân từ toát ra từ cây thập giá của Người, bằng sức mạnh của một ân điển làm sống lại và đưa họ trở lại hành trình, trên con đường của cuộc sống hôn nhân và cuộc sống gia đình.
Tình yêu của Chúa Giêsu, đã chúc lành và thánh hóa sự hợp phối của các cặp vợ chồng, có khả năng giữ gìn tình yêu của họ và canh tân nó khi, trên mặt con người, nó bị mất đi, nó bị xâu xé, nó bị mỏi mòn. Tình yêu Chúa Kitô trả lại cho vợ chồng niềm vui cùng nhau sánh bước; bởi vì hôn nhân, chính là như thế : cùng nhau sánh bước giữa một người đàn ông và một người, trong đó người đàn ông có nhiệm vụ giúp vợ mình trở thành đàn bà hơn, và người vợ có nhiệm vụ giúp chồng mình trở nên người đàn ông hơn.
Đó là sự hỗ tương giữa những khác biệt. Không phải là một hành trình đơn giản, không có tranh chấp, không, như thế không là nhân bản. Đó là một cuộc du hành nhiều đòi hỏi, đôi khi khó khăn, có lúc tranh chấp, nhưng đời là thế ! Hôn nhân là biểu tượng của đời sống, đời sống thực, không phải là một "giả tưởng" ! Chính bí tích tình yêu của Chúa Kitô và của Giáo Hội, một tình yêu tìm thấy trong Thánh Giá lý do và bảo đảm của mình.
[Bản gốc bằng tiếng Ý]
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch.
(14 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-mariage-cest-cela-le-cheminement-ensemble-d-un-homme-et-d-une-femme

 

Thánh Giá Chúa Giêsu:
Biểu tượng bạo lực của sự dữ và biểu tượng nhân lành của lòng thương xót.

Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô giờ Kinh Truyền Tin (toàn văn)

Rôma – 14/9/2014 (Zenit.org)
Thánh Giá Chúa Giêsu nói lên hai điều, Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích : "tất cả sức mạnh tiêu cực của sự dữ, và tất cả sự nhân lành toàn năng của lòng thương xót Chúa".
Quả là Đức Giáo Hoàng đã dành bài huấn đức của ngài, trước Kinh Truyền Tin, để nói về ý nghĩa ngày lễ 14/9/2014, lễ kính Thánh Giá vinh hiển.
"Tại sao lại cần phải có Thánh Giá ? Tại vì sự trầm trọng của điều ác đang bắt chúng ta làm nô lệ, Đức Giáo Hoàng đã dạy trước Kinh Truyền Tin trưa, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Sau Kinh Truyền Tin, ngài đã minh họa thêm lời lẽ của ngài khi nêu lên cái xấu của chiến tranh – "một bài học mà nhân loại đã chưa học thuộc" sau cuộc Đại Chiến, cũng như cuộc chiến đang xẩy ra tại Cộng Hòa Trung Phi. Ngài đã chào mừng phái đoàn hòa bình của LHQ tại xứ đó.
Ngài cũng nói lên sự gần gũi cua ngài với các Kitô hữu đang bị bách hại vì lòng trung thành của họ với cây Thánh Giá Chúa Giêsu, dấu hiệu tình yêu nhân lành của Thiên Chúa.
A.B.
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Ngày 14 tháng 9, Giáo Hội cử hành mừng lễ Vinh Danh Thánh Giá. Một người không phải là Kitô hữu có thể hỏi chúng ta : tại sao "vinh danh" Thánh Giá ? Chúng ta có thể trả lời rằng chúng ta không vinh danh bất cứ cây thập giá nào : chúng tôi vinh danh cây Thánh Giá Chúa Giêsu, bởi vì nơi cây Thánh Giá đó biểu hiện tuyệt đỉnh tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người. Đó là điều Phúc Âm thánh Gioan nhắc nhở cho chúng ta trong kinh phụng vụ ngày hôm nay : "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một" (Ga 3, 16). Chúa Cha đã "ban" Con của Người để cứu độ chúng ta, và điều này bao gồm cả cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên cây thập giá.
Tại sao Thánh giá lại là cần thiết ? Tại vì sự trầm trọng của điều xấu đang bắt chúng ta làm nô lệ. Thánh Giá Chúa Giêsu biểu đạt hai điều : tất cả sức mạnh tiêu cực của cái ác, và tất cả sự đau đớn toàn năng của lòng thương xót Thiên Chúa. Thánh giá có vẻ như nói lên sự phá sản của Chúa Giêsu, nhưng thực ra, Thánh Giá đánh dấu chiến thắng của Người.
Trên núi Can-ve, những kẻ chế diễu Người và nói rằng : "Nếu mi là con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem sao !" (x. Mt 27, 40). Nhưng chính trái ngược lại mới đúng : chính bởi vì Người là Con Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu đã ở chỗ đó, trên cây thập giá, trung thành đến tận cùng với kế hoạch tình yêu của Chúa Cha. Và chính cũng vì thế mà Thiên Chúa đã "suy tôn" Chúa Giêsu (Pl 2, 9), bằng cách trao cho Người một vương quyền hoàn vũ.
Và khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Thánh Giá, trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta chiêm ngắm dấu chỉ của tình yêu, tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta và là cỗi rễ của sự cứu độ chúng ta. Từ cây Thánh Giá này, tuôn chẩy lòng thương xót của Chúa Cha đang ôm lấy toàn thế giới. Bằng cây Thánh Giá Chúa Kitô quỷ dữ đã bị thua trận, sự chết đã bị đánh bại, sự sống đã được ban cho chúng ta, hy vọng được trao trở lại. Thật là quan trọng : nhờ Thánh Giá Chúa Kitô, chúng ta đã được trao lại niềm hy vọng. Thánh giá Chúa Giêsu là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta ! Đó là lý do Giáo Hội "suy tôn" Thánh Giá, đó là tại sao Kitô hữu chúng ta, chúng ta chúc lành bằng dấu Thánh Giá. Nghĩa là chúng ta "không suy tôn" các cây thập giá khác, mà chỉ suy tôn Thánh Giá vinh quang của Chúa Giêsu, dấu chỉ của tình yêu bao la của Thiên Chúa, một chỉ dấu của sự cứu độ chúng ta và con đường dẫn tới Phục Sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Và khi chúng ta ngắm nhìn và cử hành tôn vinh Thánh Giá, chúng ta cảm động nghĩ tới rất nhiều anh chị em chúng ta đang bị bách hại và giết chóc vì đức tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Đó là điều đã xẩy ra đặc biệt ở nơi mà tự do tôn giáo chưa được bảo đảm hay chưa được thực hiện đầy đủ. Nhưng điều này cũng xảy ra cả ở những quốc gia và những môi trường mà, trên nguyên tắc, tự do và nhân quyền được bảo vệ, nhưng cụ thể thì tín đồ các tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo phải đương đầu với những hạn chế và kỳ thị. Bởi vậy, hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đến họ và đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Trên núi Can-ve, Đức Trinh Nữ Maria đứng dưới chân Thánh Giá (x. Ga 19, 25-27). Đúng là Đức Mẹ Sầu Bi, mà chúng ta sẽ mừng lễ ngày mai theo lịch phụng vụ. Tôi phó thác nơi Mẹ, hiện tại và tương lai của Giáo Hội, để cho tất cả chúng ta biết luôn phải khám phá và đón nhận thông điệp tình yêu và cứu độ của Thánh Giá Chúa Giêsu. Tôi phó thác cách riêng cho Đức Mẹ các cặp hôn nhân mà tôi có hân hạnh tác hợp trong bí tí hôn phối hồi sáng nay tại đền Thánh Phêrô.
Sau Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến,
Ngày mai, tại nước Cộng Hòa Trung Phi, chính thức bắt đầu hoạt động ủy ban do Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc thành lập để giúp bình định đất nước và bảo vệ thường dân, đang chịu những hậu quả trầm trọng của cuộc chiến đang diễn ra. Trong cam kết và lời cầu nguyện của Giáo Hội, tôi khuyến khích các nỗ lực của cộng đồng quốc tế, cứu trợ dân chúng Trung Phi có thiện tâm. Cầu mong bạo lực sớm nhường bước cho đối thoại; cầu mong các phe đối nghịch hãy để sang một bên những lợi nhuận riêng tư và làm việc để mỗi công dân, bất kể thuộc chủng tộc nào, hay tôn giáo nào, có thể hợp tác xây dựng công ích. Xin Chúa đồng hành với công việc xây dựng hòa bình !
Hôm qua, tôi đã tới Redipuglia, tại nghĩa trang người Áo và Hungari và thánh địa. Tôi đã cầu nguyện cho những người đã chết vì cuộc Đại Thế Chiến. Những con số khủng khiếp : người ta nói đến 8 triệu người lính trẻ đã gục ngã và khoảng chừng 7 triệu thường dân. Điều này cho chúng ta thấy chiến tranh là một sự điên rồ đến mức độ nào ! Một sự điên rồ của nhân loại vẫn chưa học được bài học, bởi vì sau đó, đã có một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và bao cuộc chiến khác nữa, còn đang dai dẳng cho đến ngày hôm nay. Nhưng, chúng ta học bài học này lúc nào ? Tôi mời gọi tất cả mọi người hãy nhìn lên Chúa Giêsu bị Đóng Đinh để hiểu rằng hận thù và sự ác đã bị đánh bại bởi tha thứ và bởi điều thiện, để hiểu rằng câu trả lời của chiến tranh chỉ làm gia tăng điều ác và sự chết.
Và bây giờ, tôi thân ái chào mừng tất cả mọi người, các anh chị em, những tín hữu của Rôma và khách hành hương người Ý và các quốc gia khác.
Tôi đặc biệt chào mừng hội "Los Amigos de Santa Teresita y de Madre Elisabeth" từ Colombia; các tín hữu đến từ Sotto il Monte Giovanni XXIII, từ Gênes, từ Collegno và từ Spolète, và ban hợp xướng các bạn trẻ ở Trebaseleghe (Pađôva)/ Tôi chào mừng các vị đại biểu những người lao động của nhóm IDI và những thành viên phong trào Arcobaleno-Santa Maria Addolorata.
Tôi xin anh chị em, vui lòng cầu nguyện cho tôi. Tôi chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(14 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-croix-de-jesus-signe-de-la-violence-du-mal-et-de-la-douceur-de-la-misericorde

 

 

Chiến tranh là một sự điên rồ : kế hoạch phát triển của nó là phá hoại
Cuộc Thế Chiến Thứ Nhất : Thánh Lễ tại nghĩa trang quân đội Redipuglia

 

Rôma – 14/9/2014 (Zenit.org)
Chiến tranh là một sự điên rồ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố, hôm thứ bẩy, 13/9/2014, ở miền Bắc nước Ý, tại nghĩa trang quân đội Redipuglia, nơi ngài cử hành Thánh Lễ tưởng nhớ những nạn nhân của cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, xẩy ra cách đây 100 năm, trước sự hiện diện của hàng ngàn người, chủ yếu đến từ Bắc Ý và nước Áo.
"Trong lúc Thiên Chúa điều khiển công trình tạo dựng, và chúng ta, những con người, chúng ta được kêu gọi cộng tác với công trình của Người, thì chiến tranh lại phá hoại. Nó cũng phá hoại điều mà Thiên Chúa đã tạo dựng tốt đẹp nhất : con người. Chiến tranh làm xấu đi tất cả, kể cả quan hệ giữa các anh em. Chiến tranh điên rồ, kế hoạch của nó là phá hoại : muốn phát triển bằng cách phá hoại !", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố.
Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng trong văn bản tiếng Pháp được Tòa Thánh phổ biến.
A.B.
Bài huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Sau khi ngắm vẻ đẹp của phong cảnh toàn vùng này, nơi những con người nam và nữ làm việc và chăm lo gia đình mình, nơi các trẻ em nô đùa và những người già mơ mộng…, tôi đã đến đây, ở nơi này, tôi chỉ có thể nói rằng : chiến tranh là điên rồ.
Trong lúc Thiên Chúa điều khiển công trình tạo dựng của Người, trong lúc chúng ta, những con người, được kêu gọi cộng tác với công trình của Người, thì chiến tranh phá hủy. Nó cũng phá hủy cái đẹp nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng : con người. Chiến tranh làm xấu đi tất cả, kể cả quan hệ giữa các anh em. Chiến tranh là điên rồ, kế hoạch phát triển của nó là phá hoại : muốn phát triển bằng cách phá hoại !
Sự ham tiền, lòng bất dung, tham vọng quyền lực… là những lý do thúc đẩy tạo ra chiến tranh, và những lý do này thường hay được biện bạch bởi một chủ thuyết; nhưng trước hết là có dục vọng, có một sự thúc đẩy méo mó. Chủ thuyết là một sự biện bạch; và khi không có chủ thuyết, có câu trả lời của Cain : "Ăn thua gì ?", "Con là người giữ em con sao ?" (St 4, 9). Chiến tranh không nhìn thẳng mặt ai : những người già cả, các trẻ em, các bà mẹ, các ông cha… "Ăn thua gì ?".
Phía trên cổng vào nghĩa trang, có treo một câu khẩu hiệu ngạo nghễ của chiến tranh : "Ăn thua gì ?". Tất cả những con người này, mà thi hài đang an nghỉ nơi đây, đã từng có những dự án, những giấc mơ của họ… : nhưng cuộc đời của họ đã bị đổ vỡ. Nhân loại đã nói : "Ăn thua gì ?"
Ngày hôm nay nữa, sau lần thất bại thứ nhì của một cuộc chiến tranh thế giới khác, có lẽ người ta có thể nói đến một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba diễn ra "từng mảnh", với những tội ác, những giết chóc, những phá hoại…
Trung thực mà nói, trang nhất các nhật báo sẽ phải có tít lớn : "Ăn thua gì ?" Cain đã nói : "Con là người giữ em con sao ?".
Thái độ này, chính xác trái ngược với điều mà Chúa Giêsu yêu cầu trong Phúc Âm. Chúng ta đã nghe điều đó : Người ở giữa người bé nhỏ nhất trong các anh em mình : Người, là Vua, là Đấng Phán Xét thế gian, là Người bị đói, bị khát, là người lữ khách, là người bệnh hoạn, là kẻ tù tội… Kẻ chăm sóc anh em đi vào niềm vui của Thiên Chúa; trái lại, kẻ không làm điều đó, kẻ vì thiếu sót mà đã nói "Ăn thua gi ?", sẽ ở bên ngoài.
Ở đây, có nhiều nạn nhân. Hôm nay, chúng ta nhớ tới họ. Có những tiếng khóc, có đau khổ. Và từ nơi đây, chúng ta nhớ lại tất cả các nạn nhân của tất cả mọi cuộc chiến tranh.
Ngày hôm nay nữa, các nạn nhân thì rất nhiều… Điều này sao có thể ? Nó có thể bởi vì, ngày hôm nay nữa, trong hậu trường, có những lợi nhuận, những mưu đồ địa dư chính trị, sự tham lam tiền bạc và uy quyền, và còn có kỹ nghệ vũ khí, có vẻ rất là quan trọng.
Và những kẻ chủ trương khủng bố, những người tổ chức đối đầu, cũng như những kẻ buôn bán vũ khí, đã viết trên trái tim họ câu : "Ăn thua gì ?"
Chỉ những người khôn ngoan, mới nhìn ra những sai lầm của chúng, cảm nhận được nỗi đau đớn vì chúng, hối hận vì chúng, xin lỗi và khóc lóc.
Với cái câu "Ăn thua gì ?" này mà trong lòng những con buôn của chiến tranh, có lẽ có kẻ kiếm được nhiều lợi nhuận, nhưng tấm lòng hư hỏng của họ đã mất đi khả năng biết khóc. Cain đã không khóc. Ngày hôm nay, cái bóng của Cain vẫn còn bao phủ chúng ta, trong khu nghĩa trang này. Người ta nhìn thấy nó ở đây. Người ta nhìn thấy nó trong lịch sử bắt đầu từ năm 1914 cho đến ngày hôm nay. Và cả ngày nay nữa, người ta còn nhìn thấy nó.
Với một tấm lòng của người con, người anh em, người cha, tôi yêu cầu với tất cả các bạn, và cho tất cả chúng ta, sự hối cải của con tim : đi từ cái câu "Ăn thua gi ?" đến nước mắt. Cho tất cả những người đã ngã gục trong "cuộc tàn sát vô ích", cho tất cả các nạn nhân của sự điên rồ chiến tranh trong mọi thời đại. Nhân loại cần được khóc, và chính bây giờ là giờ của nước mắt.
[Bản gốc : tiếng Ý]
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(14 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-guerre-est-une-folie-son-plan-de-developpement-est-la-destruction

Không có diễn giải Thánh Kinh khi không có đời sống đức tin
Tiếp kiến Hội Thánh Kinh Ý (toàn văn)

 

Rôma – 12/9/2014 (Zenit.org)
"Ngoài năng khiếu hàn lâm, người diễn giải Thánh Kinh Công Giáo được yêu cầu phải có đức tin", nghĩa là "một cuộc sống thiêng liêng sốt sắng, với nhiều đối thoại với Chúa" Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố.
Đức Giáo Hoàng đã tiếp kiến Hội Thánh Kinh Ý, sáng ngày thứ sáu 12/9/2014, trong sảnh đường Clémentine của điện Vatican, sau Tuần Lễ Thánh Kinh quốc gia thứ 43 được tổ chức tại Viện Giáo Hoàng Thánh Kinh, trên chủ đề "Ai sẽ tường thuật những chiến công của Chúa ? (Tv 106, 2) Những can thiệp của Chúa trong lịch sử" (08-12/9/2014).
Mời gọi việc chú giải Thánh Kinh Công Giáo hãy "chú ý đừng dựa vào khía cạnh con người của những văn bản Thánh Kinh", Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở mục đích chính là : "giúp cho dân Kitô giáo nhìn rõ hơn Lời của Thiên Chúa trong những văn bản đó, hầu có thể đón nhận để sống đầy đủ trong niềm hiệp thông với Thiên Chúa.
Như thế, chú giải Thánh Kinh là "phải cầu nguyện, cầu nguyện nhiều, cầu xin trong kinh nguyện ánh sáng nội tâm của Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn đón nhận ánh sáng đó", theo gương mẫu của Đức Trinh Nữ Maria là đấng "hằng nghi nhớ những kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng" (x. Lc 2, 19).
Theo Đức Giáo Hoàng, nghiên cứu Thánh Kinh đòi hỏi "phải đón nhận đầy đủ Lời của Thiên Chúa, không chỉ qua sự sưu tầm đầu óc, mà phải trong cả cuộc đời".
A.K.
Lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Các bạn thân mến,
Tôi gặo các bạn sau tuần lễ Thánh Kinh quốc gia được cổ vũ bởi Hội Thánh Kinh Ý. Cuộc họp mặt của các bạn khai mạc cho những cử hành nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tông Hiến của Công Đồng Vaticanô II. Chúng ta phải tỏ lòng biét ơn vì những cởi mở, kết quả của một nỗ lực khảo cứu trường kỳ, mà Công Đồng đã cống hiến cho chúng ta, và vì sự phong phú và dễ dàng tiếp cận với Thánh Kinh. Người Kitô hữu cần điều này, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, trong lúc bị thúc bách bởi những khiêu khích văn hóa trái ngược. Để triển nở, và không bị bóp nghẹt, đức tin phải được nuôi dưỡng hằng ngày bởi Lời của Thiên Chúa.
Tôi biểu lộ cùng các bạn sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của tôi vì công việc quý giá mà các bạn đã hoàn tất trong sứ mạng giảng dạy và chuyên gia về Thánh Kinh của các bạn. Ngoài ra, cuộc gặp gỡ này cũng tạo dịp cho tôi nhắc lại, tiếp nối với huấn quyền của Giáo Hội, tầm quan trọng của việc chú giải Thánh Kinh cho dân của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nhớ lại điều mà Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh đã khẳng định : "Chú giải Thánh Kinh –tôi trích đọc- thực hiện trong Giáo Hội và trên thế giới, một nhiệm vụ cần thiết. Muốn bỏ qua điều này để hiểu biết Thánh Kinh chỉ là ảo tưởng và thể hiện một sự thất kính đối với Kinh Sách thần hứng […]. Để phán dạy cho những con người nam, nữ, từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng tất cả mọi khả năng của ngôn ngữ con người, nhưng đồng thời, Người đã phải bắt Lời Người phải chiều theo những cách thức phù hợp với ngôn ngữ đó. Sự tôn trọng đích thực đối với Kinh Sách thần hứng, đòi hỏi phải thực hiện mọi nỗ lực cần thiết để người ta có thể hiểu rõ được ý nghĩa. Đương nhiên, tất cả các Kitô hữu đều không thể tự mình tiến hành mọi loại khảo cứu giúp cho mình hiểu thấu các văn bản Thánh Kinh. Nhiệm vụ này được giao phó cho những nhà chủ giải Thánh Kinh, trách nhiệm, trong lãnh vực này, để phục vụ tất cả". (Giải thích Thánh Kinh trong Giáo Hội, 15/4/1993, Kết luận).
Chính xác là khi gặp gỡ các thành viên của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, nhân dịp giới thiệu tài liệu trích dẫn trên đây, mà Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc nhở rằng "để tôn trọng sự gắn bó chặt chẽ của đức tin Giáo Hội và sự thần hứng của Thánh Kinh, việc chú giải Thánh Kinh Công Giáo phải chú ý đừng dựa vào khía cạnh con người của những văn bản Thánh Kinh. Nhất là cũng phải làm sao để nó giúp cho dân Kitô giáo nhìn rõ hơn Lời của Thiên Chúa trong những văn bản đó, hầu có thể đón nhận để sống đầy đủ trong niềm hiệp thông với Thiên Chúa" 'Osservatore Romano, 25/4/1993, tr. 9). Trong mục đích đó, đương nhiên là cần thiết cho người chú giải Thánh Kinh phải biết nhìn thấy trong các văn bản Lời Thiên Chúa, và điều này chỉ có thể được nếu đời sống thiêng liêng của người đó sốt sắng, với nhiều đối thoại với Chúa; nếu không, sự khảo cứu chú giải Thánh Kinh vẫn chỉ là không đầy đủ và không nhắm vào mục đích chính của nó.
Trong phần kết luận của tài liệu, có một thành ngữ rất chính xác : "Chú giải Thánh Kinh Công Giáo không có quyền giống như một dòng nước bị mất đi trong đồng cát của một sự phân tích phê bình khắt khe".
Vi vậy, ngoài năng khiếu hàn lâm, người chú giải Thánh Kinh Công Giáo cũng được yêu cầu và nhất là được yêu cầu phải có đức tin, đón nhận và chia sẻ với toàn dân tín hữu vốn không thể tất cả đều lầm lẫn. Tôi còn viện dẫn lời thánh Gioan Phaolô II : "Để đạt được một sự giải thích hoàn toàn có giá trị những lời lẽ được gợi hứng bởi Chúa Thánh Thần, chính chúng ta cũng phải được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần, và để được vậy, phải cầu nguyện, cầu nguyện nhiều, cầu xin trong kinh nguyện ánh sáng n(ôi tâm của Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn đón nhận ánh sáng đó, cầu xin tình yêu vì chỉ co tình yêu là có thể ban cho khả năng thấu hiểu lời lẽ của Thiên Chúa, vốn là tình yêu (1 Ga 4, 8-16)" (Osservatore Romano, 25/4/1993, tr. 9).
Gương mẫu là Đức Trinh Nữ Maria là thánh Luca đã kể lại là Mẹ đã hằng nghi nhớ những kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng những lời lẽ và biến cố liên quan đến Con Mẹ là Chúa Giêsu (x. Lc 2, 19). Đức Trinh Nữ Maria dạy cho chúng ta đón nhận đầy đủ Lời của Thiên Chúa, không chỉ trong sự tìm kiếm trí óc, mà trong tất cả cuộc đời chúng ta.
Anh chị em thân mến, một lần nữa tôi cảm ơn anh chị em, tôi ban phép lành cho anh chị em và công việc của anh chị em, và tôi xin anh chị em, vui lòng cầu nguyện cho tôi.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(12 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/pas-d-exegese-catholique-sans-vie-de-foi

Lòng nhân từ giúp tái hội nhập xã hội
Bởi vì lòng nhân từ làm thay đổi lòng người, cuộc đời và thế giới.

 

Rôma -10/9/2014 (Zenit.org)
Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, lòng nhân từ cũng giúp cho những người từng bị tù tội tái hội nhập xã hội.
Chính lòng nhân từ có thể làm thay đổi lòng người và cuộc đời, có thể tái sinh một con người và giúp cho con người tái hội nhập xã hội một cách mới mẻ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích trong bài giáo lý ngày thứ tư 10/9/2014 này về Mẹ Giáo Hội, dạy dỗ con cái, cách cụ thể, về lòng nhân từ.
"Để thay đổi thế giới cho tốt hơn, phải làm điều tốt cho những người không có đủ điều kiện để đáp trả cho chúng ta, như Chúa Cha đã làm cho chúng ta, khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu. Chúng ta đã đền trả được bao nhiêu cho ơn cứu độ chúng ta ? Chẳng được gì, tất cả đều là miễn phí ! Làm điều tốt không chờ đợi đáp trả. Đó là chính những gì Cha chúng ta đã làm với chúng ta và chúng ta cũng phải làm như thế. Hãy làm điều tốt và tiến lên !", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý do Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên ban bằng tiếng Ý sáng nay trên quảng trường Thánh Phêrô.
A.B.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em,
Trong chương trình giáo lý của chúng ta về Giáo Hội, chúng ta đã dừng lại để nghiên cứu xem Giáo Hội là Mẹ như thế nào. Lần trước, chúng ta đã nhấn mạnh sự kiện Giáo Hội làm cho chúng ta lớn lên, và dưới ánh sáng và sức mạnh của Lời Thiên Chúa, Giáo Hội chỉ cho chúng ta con đường cứu độ và bảo vệ chúng ta chống lại sự dữ. Ngày hôm nay, tôi muốn đề cập một khía cạnh đặc biệt của hoạt động giáo dục này của Mẹ Giáo Hội chúng ta : Mẹ đã dậy chúng ta về lòng nhân từ như thế nào.
Một nhà giáo dục giỏi đi vào điều cốt yếu. Ông ta không lan man trong những chi tiết vụn vặt, mà muốn truyền thụ những điều đáng kể để đứa con hay đứa học trò mình tìm thấy ý nghĩa và niềm vui sống. Đó là sự thật. Và điều cốt yếu, theo Tin Mừng, chính là lòng nhân từ. Điều cốt yếu của Tin Mừng, chính là lòng nhân từ.
Thiên Chúa đã gửi Con của Người, cũng là Thiên Chúa xuống làm người để cứu độ chúng ta, nghĩa là để ban cho chúng ta lòng nhân từ (thương xót). Chúa Giêsu đã phán bảo rõ ràng, tóm tắt giáo huấn của Người cho các môn đệ : "Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ" (Lc 6, 36). Liệu có thể có một người Kitô hữu không có lòng nhân từ không ? Không. Nhất thiết người Kitô hữu là phải nhân từ, bởi vì đó là trung tâm của Tin Mừng. Và trung thành với giáo huấn này, Giáo Hội chỉ biết nhắc lại chuyện đó với con cái mình : "Anh chị em hãy nhân từ", như Chúa Cha và như Chúa Giêsu. Lòng Nhân Từ.
Như thế, Giáo Hội hành xử như Chúa Giêsu. Giáo Hội không đưa ra các bài học lý thuyết về tình yêu, về lòng nhân từ. Giáo Hội không phổ biến trên thế giới một triết lý, một đường lối khôn ngoan… Đương nhiên, Kitô giáo cũng là tất cả những thứ đó, nhưng đó chỉ là một hậu quả, một phản ánh. Mẹ Giáo Hội của chúng ta, như Chúa Giêsu, dạy chúng ta bằng cách làm gương, và lời lẽ của Giáo Hội dùng để soi sáng ý nghĩa những cử chỉ của mình.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta dạy chúng ta hãy cho những người đói khát ăn uống, cho những người trần trụi quần áo. Và Giáo Hội làm thế nào ? Giáo Hội đã thực hiện bằng gương các thánh nam, nữ đã sống như thế cách gương mẫu; nhưng Giáo Hội cũng làm bằng gương sáng của tất cả mọi người : các bậc cha, mẹ đã dậy dỗ con cái mình rằng những cái mình dư thừa thì đối với những người nghèo khó là điều cần thiết. Thật là quan trọng phải biết điều này.
Trong các gia đình Kitô giáo đơn sơ nhất, thì nguyên tắc hiếu khách đã luôn được coi là thiêng liêng : không bao giờ thiếu một cái bát hay một chỗ ngủ cho người cơ nhỡ. Có lần, một bà mẹ đã kể cho tôi, trong một giáo phận khác của tôi, là bà muốn dạy dỗ điều này cho con cái bà và bà bảo chúng hãy giúp đỡ và cho những người thiếu đói ăn uống. Bà ta có 3 con. Và một ngày kia, giữa bữa ăn, người cha đi làm bên ngoài, và bà đang ở cùng với 3 đứa con còn rất nhỏ của bà – 7 tuổi, 5 tuổi và 4 tuổi, cỡ đó -, và bỗng có tiếng gõ cửa : đó là một ông đến xin ăn. Bà mẹ nói với ông ta : "Ông đợi một lát". Bà quay vào trong nhà nói với các con bà : "- Có một ông ở ngoài kia xin mình cái gì để ăn, mình làm sao đây ? – Má ơi, mình cho ông cái gì đi, mình cho ông cái gì đi !" Mỗi đứa con có trong đĩa của mình một miếng bí-tết khoai tây chiên. "- Được lắm, người mẹ nói, chúng mình hãy lấy phân nửa của mỗi người chúng mình để cho ông ta mỗi người nửa miếng bí-tết. - Ô, không được má à, như thế không được ! - Phải như thế chứ, con phải cho cái gì của con chứ". Và như thế, bà má đã dạy cho các con bà cho đi cái gì của chúng. Đó là một thí dụ đã giúp cho tôi rất nhiều. "- Nhưng tôi không có dư thừa… - Hãy cho cái gì bạn có !" Chính đó là điều mà Mẹ Giáo Hội dạy cho chúng ta. Và các chị em, tất cả các bà mẹ đang có mặt ở đây, các chị biết phải làm gì để dạy cho con cái các chị biết chia sẻ đồ dùng của mình cho những kẻ đang cần thiết.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta dạy phải gần gũi với những người đau ốm. Đã có biết bao vị thánh nam, nữ đã phục vụ Chúa Giêsu bằng cách này ! Và đã có biết bao người nam, nữ đơn sơ, hàng ngày, thể hiện công việc nhân từ trong các phòng bệnh viện, các nhà hưu dưỡng hay tại gia, chăm lo cho một người bệnh !
Mẹ Giáo Hội chúng ta dạy phải gần gũi những người đang bị tù tội. "Nhưng, thưa cha, không, chuyện này nguy hiểm, đó là những người dữ tợn !" Nhưng tất cả chúng ta đều có khả năng… Anh chị em hãy nghe đây : tất cả chúng ta đều có khả năng làm điều mà người nam hay nữ tù nhân đã làm và bây giờ đang ở trong tù. Tất cả chúng ta đều có thể phạm tội và làm chuyện tương tự, lầm lạc trong cuộc đời. Họ không xấu hơn bạn và tôi ! Lòng nhân từ vượt qua mọi bức tường, mọi hàng rào, và thúc đẩy bạn luôn tìm khuôn mặt của người ta, của con người. Và chính là lòng nhân từ đã làm thay đổi tâm hồn và đời sống, có thể làm tái sinh một con người và giúp cho họ hội nhập trong xã hội một cách mới mẻ.
Mẹ Giáo Hội chúng ta dạy phải gần gũi những người bị bỏ rơi và những người chết trong cô độc. Đó là điều mà Chân Phước Têrêxa đã làm trên đường phố Calcutta : đó là những gì biết bao Kitô hữu đã làm và đang làm, họ không sợ nắm tay người trong lúc hấp hối. Và ở đây cũng thế, lòng nhân từ mang tới bình an cho người ra đi và người ở lại, làm cho chúng ta thấy được Thiên Chúa lớn hơn sự chết, và ở lại trong Người, sự chia lìa cuối cùng chỉ là một lần "tạm biệt"… Chân Phước Têrêxa đã thấu hiểu điều này ! Người ta nói với bà : "Thưa Mẹ, đây là chuyện làm mất thời giờ !". Mẹ đã tìm tới những người đang hấp hối trên đường phố, bình an, với một sự vuốt ve, bình an. Và mẹ nói với tất cả những người đó "tạm biệt"… và đã có biết bao nhiêu người nam hay nữ đã làm chuyện giống như mẹ. Và họ, họ chờ đợi những người này, trên kia [ngài chỉ tay lên trời], ở cửa, để mở cửa trời cho những người đó. Giúp đỡ người ta chết trong sự tốt lành và bình an.
Anh chị em thân mến, chính như thế Giáo Hội đã là mẹ, khi dạy dỗ con cái mình những công tác nhân từ. Giáo Hội đã học con đường này từ Chúa Giêsu, Giáo Hội đã học được rằng đó là điều cốt yếu cho sự cứu độ. Chỉ yêu thương những người thương yêu mình thi không đủ. Chúa Giêsu phán rằng những kẻ ngoại cũng làm như thế. Làm điều tốt cho những người làm tốt với mình cũng không đủ. Để thay đổi thế giới này thành tốt hơn, phải làm điều tốt cho những người không có điều kiền đáp trả lại chúng ta, như Chúa Cha chúng ta đã làm cho chúng ta, khi Người ban Chúa Giêsu cho chúng ta. Chúng ta đã đền trả được bao nhiêu cho ơn cứu độ chúng ta ? Chẳng được gì, tất cả đều là miễn phí ! Làm điều tốt không chờ đợi đáp trả. Đó là chính những gì Cha chúng ta đã làm với chúng ta và chúng ta cũng phải làm như thế. Hãy làm điều tốt và tiến lên !
Thật là đẹp biết bao khi được sống trong Giáo Hội, trong Mẹ Giáo Hội của chúng ta, đã dạy cho chúng ta tất cả những gì Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta ! Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, đã ban cho chúng ta ơn phúc có Giáo Hội là mẹ, Giáo Hội dạy chúng ta con đường nhân từ, vốn là con đường của sự sống. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa.
Bản dịch tiếng Pháp : Constances Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
© Zenit.org 2014 pour la traduction
(10 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-misericorde-permet-la-reinsertion-dans-la-societe

 

Trước khi sửa người khác, hãy nhìn nhận mình tội lỗi
Kinh Truyền Tin ngày 07 tháng 9 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 07/9/2014 (Zenit.org)
"Sửa anh em mình chỉ hữu hiệu nếu mỗi người nhìn nhận mình tội lỗi… Lương tâm khiến tôi nhìn ra lỗi lầm người khác, trước hết, nhắc nhở tôi là rất nhiều khi tôi cũng phạm những lỗi lầm đó", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố trong giờ Kinh Truyền Tin trưa ngày 07/9/2014 này.
Đức Giáo Hoàng đã chủ trì giờ kinh kính Đức Mẹ trưa Chúa Nhật, từ trên cửa sổ văn phòng của ngài mở ra quảng trường Thánh Phêrô trước sự hiện diện của nhiều ngàn người.
Bình giảng bài Phúc Âm hôm nay (Mt 18, 15-20), trong đó Đức Kitô trình bày chi tiết các giai đoạn của sự sửa sai huynh đệ Kitô giáo, Đức Giáo Hoàng đã giải thích là việc sửa sai này là "một khía cạnh của tình yêu thương và sự hiệp thông luôn ngự trị trong cộng đoàn Kitô hữu, một sự phục vụ lẫn nhau"
Nhưng nó chỉ có thể được thực hiện được, nếu ta nhìn nhận chính mình cũng là tội nhân : quả vậy, đây tiên quyết không phải là nói "Lạy Chúa, xin hãy đoái thương anh chàng đang ở bên cạnh con, hay cái nhà chị đó, là những kẻ tội lỗi" mà phải nói "Lạy Chúa ! Xin Chúa hãy đoái thương con. Con là kẻ tội lỗi !"
Lời Đức Giáo Hoàng trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, trích ra từ chương 18 Tin Mừng theo thánh Mátthêu, trình bày chủ đề sửa sai huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu : nghĩa là tôi phải chỉnh sửa một Kitô hữu khác như thế nào khi người này làm điều gì không tốt. Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng nếu người anh em của tôi phạm một lỗi lầm gì đối với tôi, người đó xúc phạm tôi, tôi phải sử dụng đức ái đối với người đó và trước hết, nói chuyện riêng với người đó và giải thích điều người đó nói hay việc người đó làm là không tốt. Và nếu người anh em của tôi không nghe tôi nói thì sao ? Chúa Giêsu đề nghị một sự can thiệp từng bước : trước tiên, quay lại cùng với hai hay ba người để nói chuyện với người đó, hầu cho người đó ý thức được lỗi lầm người đó đã làm; nếu mặc dù đã làm thế, người đó vẫn không đón nhận lời khuyên, thì phải trình bày với cộng đoàn; và nếu người đó vẫn không nghe cộng đoàn, thì phải cho người đó thấy sự đổ vỡ và sự chia ly mà người đó đã gây ra, làm giảm đi sự hiệp thông với các anh em trong đức tin.
Các giai đoạn của tiến trình này cho thấy nỗ lực mà Chúa yêu cầu cộng đoàn để đồng hành với người lầm lạc, để hắn khỏi bị mất đi. Trước hết phải tránh thổi phồng và ồn ào trong cộng đoàn –đó là chuyện đầu tiên phải tránh. "Một mình anh đi nói thẳng với hắn và chỉ cho hắn lỗi lầm hắn đã phạm" (x. Mt 18, 15). Thái độ này rất tế nhị, thận trọng, khiêm nhường, quan tâm đối với kẻ đã phạm lỗi lầm, tránh để lời nói gây thương tích và giết hại người anh em. Bởi vì, như anh chị em biết, lời nói cũng có thể giết người ! Khi tôi nói xấu, khi tôi chỉ trích không chính đáng, khi tôi "làm trầy da tróc vẩy" một người anh em bằng miệng lưỡi của mình, tất cả điều đó có nghĩa là giết chết thanh danh người khác ! Lời nói cũng giết người. Chúng ta hãy chú ý điều này. Trong lúc đó, có sự kín đáo để nói chuyện riêng, mặt đối mặt, có tác dụng không làm người lầm lỗi bị tổn thương vô ích. Chỉ hai người nói thẳng với nhau, không ai trông thấy, và mọi chuyện chấm dứt. Chính dưới ánh sáng của sự đòi hỏi này mà cũng có thể hiểu được chuỗi can thiệp kế tiếp, dự kiến sự tham gia của vài ba chứng nhân, rồi đến cộng đoàn. Mục đích là giúp đỡ người đó ý thức được điều họ đã làm, và lỗi lầm của hắn không chỉ xúc phạm đến một người mà còn xúc phạn đến cả cộng đoàn. Nhưng mục đích cũng là giúp cho chúng ta thoát ra khỏi sự giận dữ hay oán hờn, chỉ có hại : cay đắng trong lòng mang lại giận dữ và oán hờn, xúi dục sự chửi rủa và tấn công. Thật là xấu xa khi nghe thốt ra từ cửa miệng của người Kitô hữu một lời chửi rủa hay một sự tấn công. Thật là xấu xa. Đúng không ? Không chửi rủa ! Chửi rủa không là Kitô giáo. Đúng không ? Chửi rủa không là Kitô giáo.
Thực tế, trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi và chúng ta cần được tha thứ. Tất cả. Chúa Giêsu quả đã phán bảo chúng ta không được xét đoán. Sự sửa sai huynh đệ là một khía cạnh của tình yêu và của sự hiệp thông vốn phải ngự trị trong các cộng đoàn Kitô hữu, đó là một sự phục vụ tương tác mà chúng ta có thể và chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Sửa chữa người anh em là phục vụ, vốn chỉ có thể và hữu hiệu khi mỗi người tự nhìn nhận là kẻ tội lỗi và cần được sự tha thứ của Chúa. Cũng cái lương tâm đã khiến tôi nhìn ra lỗi lầm người khác, trước hết, nhắc nhở tôi là rất nhiều khi tôi cũng phạm những lỗi lầm đó.
Cho chuyện này, mỗi lần đầu Thánh Lễ, chúng ta được mời gọi hãy nhìn nhận trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, bằng cách biểu lộ bằng lời nói và bằng cử chỉ sự hối cải thành khẩn của tấm lòng. Và chúng ta nói : "Lạy Chúa, Xin Chúa đoái thương đến con. Con là kẻ tội lỗi ! Lạy Thiên Chúa Toàn Năng, con thú nhận tội lỗi của con". Và chúng ta không nói : Lạy Chúa, xin hãy đoái thương anh chàng đang ở bên cạnh con, hay cái nhà chị đó, là những kẻ tội lỗi". Không ! "Xin Chúa đoái thương đến con !" Tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi và chúng ta cần sự tha thứ của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần đã phán dạy tâm hồn chúng ta và làm cho chúng ta nhận biết tội lỗi chúng ta dưới ánh sáng Lời Chúa. Cũng chính Đức Giêsu này đã mời gọi tất cả chúng ta, những người thánh thiện hay những kẻ có tội, đến bàn tiệc của Người bằng cách tập họp chúng ta từ các ngã đường, trong mọi cảnh huống của cuộc sống (x. Mt 22, 9-11). Và trong các điều kiện đang kéo lại gần nhau những người tham dự bí tích Thánh Thể, có hai điều kiện cốt yếu để đi dự Thánh Lễ : Tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội và Thiên Chúa đã ban lòng thương xót của Người cho tất cả chúng ta. Đó là hai điều kiện đã mở cửa để đi vào Thánh Lễ. Chúng ta luôn phải nhớ điều này trước khi đi đến với người anh em để sửa lỗi cho huynh đệ.
Chúng ta hãy cầu xin tất cả điều này nhờ vào lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria mà chúng ta sẽ cử hành trong ngày mai Lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ.
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến,
Những ngày gần đây, đã có những bước có ý nghĩa trong việc tìm kiếm một cuôc hưu chiến trong những vùng liên hệ đến cuộc chiến tranh ở miền Đông Ukraine, dù là sáng nay tôi đã nghe những tin tức không mấy an tâm. Tuy nhiên, tôi mong muốn rằng những bước này có thể mang lại sự thoa dịu cho dân chúng và đóng góp các nỗ lực cho một nền hòa bình lâu bền. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho, trong cái lôgic của sự gặp gỡ, cuộc đối thoại đã bắt đầu có thể tiếp nối và mang lại kết quả mong đợi. Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, cầu cho chúng con.
Tôi xin hiệp nhất tiếng nói của tôi với các Đức Giám Mục của vương quốc Lesotho, vừa đưa ra một lời kêu gọi hòa bình trên đất nước này. Tôi lên án mọi hành động bạo lực và tôi cầu xin Chúa để hòa bình được tái lập trong công lý và trong tình huynh đệ, ở vường quốc Lesotho.
Chúa Nhật này, một đoàn xe của khoảng 30 tình nguyện viên Hồng Thập Tự Ý khởi hành đi tới Irak, trong vùng Dohuk, gần Erbil, nơi đã tập trung hàng chục ngàn người tỵ nạn Irak. Trong lúc biểu lộ sự ngưỡng mộ thành thật đối với hoạt động rộng lượng và cụ thể, tôi ban cho họ phép lành của tôi, cũng như tất cả những người đang cụ thể đi tìm cách giúp đỡ anh em chúng ta đang bị bách hại và đàn áp. Xin Chúa chúc phúc cho các bạn.
Tôi chào mừng tất cả các khách hành hương đến từ Italia và các nước khác, đặc biệt là nhóm người hành hương từ Brasil, các sinh viên trường Thánh Basile le Grand de Presov, ở Slovaquia, các tín hữu của Sulzano (Brescia), Gravina di Puglia, Castiglion Fiorentino, Poggio Rusco (Mantova), Albignasego (Padova), Molino di Altissimo (Vicence), những người trẻ chịu Phép Thêm Sức của Matera, Valdagno và Vibo Valentia.
Tôi gửi lời chào mừng thân thiện đến Đức Hồng Y tổng giám mục Lima và các tín hữu giáo phận của ngài, ngày hôm nay, đang khai mạc Thượng Hội Đồng các giám mục tổng giáo phận Lima lần thứ XX
Và anh chị em có nhớ - như tôi đã nói – ngày mai là lễ phụng vụ kính nhớ Ngày Sinh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là Sinh Nhật của Đức Mẹ. Người ta làm gì trong ngày sinh nhật của má mình ? Chào hỏi má và chúc mừng má… Ngày mai, anh chị em hãy nhớ, ngay từ sáng sớm, trong lòng và từ miệng lưỡi anh chị em, chào mừng Đức Trinh Nữ và thưa với Mẹ : "Chúc mừng sinh nhật Mẹ !". Và dâng lên Mẹ một "Kinh Kính Mừng" xuất phát từ trái tim con cái của Người. Anh chị em hãy nhớ điều này !
Với tất cả, tôi xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi. Tôi chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt đẹp.
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 7 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/avant-de-corriger-l-autre-se-reconnaitre-pecheur

 

Giáo Hội trợ giúp để chống lại điều ác
Bài giáo lý ngày 03 tháng 9 năm 2014

 

Rôma – 03/9/2014 (Zenit.org)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích hãy chống lại "sự lừa dối và quyến rũ của ác thần" với "những lời khuyên của Giáo Hội", trong buổi triều kiến chung ngày 03/9/2014 này, trên quảng trường Thánh Phêrô. Quả vậy, "như một bà mẹ hiền [Giáo Hội] luôn tháp tùng con cái mình trong những giờ phút khó khăn" và trợ giúp để "không bị khờ khạo, mà phải tỉnh thức và kiên trì trong đức tin".
Sáng ngày thứ tư tuần này, Đức Giáo Hoàng đã trình bày bài giáo lý thứ năm về Giáo Hội : sau bài "sáng kiến của Thiên Chúa", "sự thống thuộc" của các giáo hữu vào Giáo Hội, Giáo Hội "Giao Ước mới và dân tộc mới", và Giáo Hội "duy nhất và thánh thiện", Đức Giáo Hoàng, hôm thứ tư này, đã suy niệm về "tính từ mẫu của Giáo Hội".
Ngài mô tả tính từ mẫu của Giáo Hội như "sự tiếp nối tính từ mẫu của Mẹ Maria" : "sự sinh ra của Chúa Giêsu trong lòng Đức Maria, là điều báo hiệu cho sự sinh ra của tất cả mọi Kitô hữu trong lòng Giáo Hội".
Như vậy, các Kitô hữu "không phải là những kẻ mồ côi, [họ có] một bà má, một người mẹ", là Giáo Hội, đã "nuôi nấng" và "dưỡng dục" họ băng Lời Thiên Chúa, Lời duy nhất có khả năng "thay đổi [con người] từ nội tâm".
Đức Giáo Hoàng cũng đã nhắc nhở rằng Giáo Hội không chỉ là "các linh mục hay giám mục", mà là "tất cả những người đã chịu Phép Rửa, nam cũng như nữ". Như vậy mỗi người phải "làm chứng cho tính từ mẫu này của Giáo Hội, cho lòng can cảm người mẹ của Giáo Hội" bằng cách "có cùng một tinh thần từ mẫu đối với anh em mình, với khả năng thành khẩn đón nhận, tha thứ, thêm sức mạnh và hiến tặng tin tưởng và hy vọng"
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em,
Trong các bài giáo lý trước, chúng ta đã có dịp nhiều lần nhận thấy rằng người ta không tự mình trở thành Kitô hữu, nghĩa là chỉ bằng sức lực của riêng mình, một cách tự chủ, và người ta cũng không thể trở thành Kitô hữu trong phòng thí nghiệm, mà chính ở trong thân thể to lớn là Giáo Hội mà người ta được sinh ra và lớn lên trong đức tin. Trên ý nghĩa này, Giáo Hội thật sự là một người mẹ, Mẹ Giáo Hội của chúng ta -thật là đẹp khi nói như thế : Mẹ Giáo Hội của chúng ta- một người mẹ ban cho chúng ta sự sống trong Đức Kitô và làm chúng ta sống với tất cả những con người khác trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
1. Trong tính từ mẫu của mình, Giáo Hội có gương mẫu là Đức Trinh Nữ Maria, khuôn mẫu tốt đẹp nhất và cao quý nhất có thể có được. Chính đó là những gì các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã trải nghiệm và Công Đồng Vaticanô II đã biểu lộ một cách tuyệt diệu (x. Lumen Gentium, 63-64). Tính từ mẫu của Đức Maria chắc chắn là chỉ có một, đặc biệt và đã được viên mãn trong mọi thời đại, khi Đức Trinh Nữ Maria sinh Con Thiên Chúa ra đời, sau khi thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Và tuy vậy, tính từ mẫu của Giáo Hội cũng nằm trong sự tiếp nối của tính từ mẫu của Mẹ Maria, như sự nối dài của Giáo Hội trong lịch sử. Trong sự phong phú của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục sinh ra các con cái mới trong Đức Kitô, luôn lắng nghe Lời Thiên Chúa và trong sự vâng phục dự án tình yêu của Người. Giáo Hội là mẹ. Sự giáng sinh của Chúa Giêsu trong lòng Đức Maria là điều tiên báo cho việc ra đời của tất cả các Kitô hữu trong lòng Giáo Hội, vì Đức Kitô là Con Đầu Lòng của vô số anh em Người (x. Rm 8,29) và là Anh Cả của chúng ta. Chúa Giêsu sinh bởi Đức Mẹ Maria, Người là khuôn mẫu của chúng ta và tất cả chúng ta đều được sinh ra trong Giáo Hội. Như thế, chúng ta đã hiểu được mối quan hệ gắn liền Đức Maria với Giáo Hội là rất sâu đậm : khi nhìn lên Đức Mẹ Maria, chúng ta khám phá ra khuôn mặt đẹp nhất và dịu hiền nhất của Giáo Hội.; khi chúng ta nhìn vào Giáo Hội, chúng ta nhận ra những nét tuyệt vời của Đức Mẹ Maria. Chúng ta, Kitô hữu, chúng ta không phải là những kẻ mồ côi, chúng ta có môt bà má, một người mẹ và đó là điều vĩ đại ! Chúng ta không phải là mồ côi ! Giáo Hội là Mẹ, Đức Maria là Mẹ.
2. Giáo Hội là mẹ chúng ta bởi vì Giáo Hội đã sinh ra chúng ta trong Phép Rửa. Mỗi lần chúng ta Rửa Tội một em nhỏ, em đó trở thành con cái của Giáo Hội, em bước vào Giáo Hội. Và kể từ ngày hôm đó, như một bà mẹ ân cần, Giáo Hội làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin và chỉ cho chúng ta, với sức mạnh của Lời Chúa, con đường cứu độ, và bảo vệ chúng ta khỏi mọi sự dữ.
Giáo Hội đã nhận từ Chúa Giêsu kho tàng quý báu là Phúc Âm, không phải để giữ riêng cho Giáo Hội, mà để ban phát rộng rãi cho những người khác, như một bà mẹ vẫn làm. Trong sứ vụ Phúc Âm hóa, Mẹ Giáo Hội thể hiện một cách đặc biệt, dấn thân như một người mẹ, để cống hiến cho con cái mình của ăn thiêng liêng hầu nuôi dưỡng và làm đâm hoa kết quả đời sống Kitô hữu. Vì vậy, tất cả chúng ta được kêu gọi đón nhận với một tinh thần và một con tim cởi mở, Lời của Thiên Chúa mà Giáo Hội ban phát cho chúng ta mỗi ngày, bởi vì Lời đó có khả năng thay đổi chúng ta từ nội tâm. Chỉ có Lời Thiên Chúa có khả năng thay đổi chúng ta từ trong lòng, từ những cỗi rễ sâu xa nhất của chúng ta. Lời Thiên Chúa có quyền năng đó. Và ai là người ban cho chúng ta Lời Thiên Chúa ? Là Mẹ Giáo Hội. Giáo Hội nuôi sống chúng ta, các con cái, với Lời này, Giáo Hội dưỡng dục chúng ta trong cuộc đời với Lời này và đó là điều vĩ đại ! Cũng chính là Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã thay đổi chúng ta từ nội tâm bằng Lời Chúa. Lời Thiên Chúa mà mẹ Giáo Hội ban cho chúng ta thay đổi chúng ta, làm cho tính nhân bản của chúng ta rung động, không phải theo thế giới của xác thịt, mà theo Chúa Thánh Thần.
Trong sự ân cần từ mẫu, Giáo Hội cố gắng chỉ cho các tín hữu con đường phải đi để sống một cuộc đời tràn đầy niềm vui và an bình. Được soi đường bằng ánh sáng Phúc Âm và nâng đỡ bằng ơn phúc của các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể hướng những lựa chọn của chúng ta về điều thiện và vượt qua những giờ phút tối tăm và những con đường ngoắt ngoéo nhất với lòng can đảm và hy vọng. Con đường cứu độ, qua đó Giáo Hội dẫn dắt chúng ta và đồng hành với chúng ta với sức mạnh của Phúc Âm và sự nâng đỡ của các bí tích, ban cho chúng ta khả năng chống lại mọi sự dữ. Giáo Hội có cái can đảm của một người mẹ biết mình phải bảo vệ con cái khỏi những hiểm nguy đến từ sự hiện diện của quỷ Satan trên thế gian, để dẫn đưa chúng tới với Chúa Giêsu. Một bà mẹ luôn luôn bảo vệ con cái mình. Sự bảo vệ này cũng bao hàm việc khuyên nhủ chúng phải cảnh giác : tỉnh thức chống lại những dối gian và quyến rũ của ác thần. Bởi vì, nếu Thiên Chúa đã thắng Satan, nó vẫn trở lại với những cám dỗ của nó; chúng ta đều biết, tất cả chúng ta đều bị cám dỗ, chúng ta đã bị cám dỗ và sẽ còn bị cám dỗ. Satan đến "như sư tử gầm thét" (1 Pr 5, 8), thánh Phêrô đã nói và chúng ta phải đừng khờ khạo, mà phải tỉnh thức và kiên trì trong đức tin. Chống lại [cám dỗ] với những khuyên bảo của mẹ Giáo Hội chúng ta, chống lại với sự trợ giúp của mẹ Giáo Hội chúng ta, đang như bà mẹ hiền, luôn luôn đồng hành với con cái mình trong những giờ phút khó khăn.
3. Các bạn thân mến, Giáo Hội là như thế đó, đó là Giáo Hội mà tất cả chúng ta cùng yêu mến, đó là Giáo Hội mà tôi yêu mến : một bà mẹ luôn mang trong lòng hạnh phúc của con cái và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho con cái. Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng Giáo Hội, không phải chỉ là các linh mục, hay chúng tôi, các giám mục, không ! Chính là tất cả chúng ta ! Giáo Hội, chính là tất cả chúng ta ! Đồng ý không ? Và chúng ta nữa, chúng ta là con cái, nhưng cũng là mẹ của các Kitô hữu khác. Tất cả những người đã chịu Phép Rửa, nam cũng như nữ, cùng nhau, chúng ta là Giáo Hội. Quá nhiều khi, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta không làm chứng cho tính từ mẫu của Giáo Hội, cho cái can đảm từ mẫu của Giáo Hội ! Quá nhiều khi chúng ta hèn nhát ! Vì vậy, chúng ta hãy phó thác chúng ta cho Đức Mẹ Maria để, như Mẹ của vị Anh Cả Giêsu, Mẹ dạy cho chúng ta cũng có một tinh thần từ mẫu đối với anh em chúng ta, với khả năng thành khẩn đón nhận, tha thứ, gia tăng sức mạnh và cống hiến niềm tin và hy vọng. Chính đó là điều một người mẹ thường làm.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
Lời chào mừng của Đức Giáo Hoàng sau bài giáo lý
Lời chào các tín hữu nói tiếng Ả-Rập :
"Giáo Hội hãnh diện vì các anh chị em, hãnh diện có những con cái như các anh chị em, anh chị em là sức mạnh của Giáo Hội", Đức Giáo Hoàng tuyên bố với các Kitô hữu bị bách hại trên thế giới, nhất là các Kitô hữu Irak. Ngài cũng đoan chắc với họ : "Giáo Hội đau khổ với anh chị em"
Lời khen ngợi đối với các cặp tân hôn
"Phải có can đảm mới kết hôn ngày hôm nay" : đó là lời của Đức Giáo Hoàng nói với những cặp tân hôn trong buổi triều kiến chung hôm thứ tư 03/9/2014 này trên quảng trường Thánh Phêrô. "Các anh chị em rất can đảm, tôi nói thật đấy, bởi vì phải có can đảm để kết hôn vào ngày hôm nay ; đây là những người can đảm !" ngày đã hô lớn khi quay sang phía các cặp đang mặc áo cưới mà ngài sẽ ban bí tích hôn phối cuối buổi triều yết. Đức Giáo Hoàng đã khuyến nhủ hãy "giữ một quan hệ sống động với Thiên Chúa, để tình yêu được luôn luôn đích thực hơn và lâu bền hơn".
Lời chào các học sinh tựu trường
Tựu trường 2014, sau nghỉ hè, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên nhủ các học sinh hãy tìm lại "nhịp độ thường kỳ của một sự đối thoại với Thiên Chúa". Đức Giáo Hoàng nói : "Các bạn trẻ thân mến, khi trở lại những hoạt động quen thuộc hàng ngày sau nghỉ hè, các bạn cũng hãy bắt đầu lại nhịp độ thường kỳ của cuộc đối thoại thân tình với Thiên Chúa và hãy phổ biến ánh sáng của Người chung quanh các bạn", Đức Giáo Hoàng đã khuyên họ.
( 3 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-aide-de-l-eglise-pour-resister-au-mal

 

Trận đá banh hòa bình : "giữa anh em với nhau"
Khi thể thao và tôn giáo kết hợp (toàn văn)

 

Rôma – 01/9/2014 (Zenit.org)
Anh em hãy mở rộng tấm lòng anh em với nhau" : đó là lời hô hào của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi tôn giáo và thể thao hãy "hợp tác" để "xây dựng một nền văn minh xây dựng trên tình yêu, tình liên đới và hòa bình"
Một vài giờ trước khi "trận đấu liên tôn cho hòa bình" được tổ chức chiều nay trên sân vận động Olympique, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp kiến các cầu thủ trong đại sảnh Phaolô VI của diện Vatican, lúc 16 giờ ngày 01/9/2014 này.
Được gợi ý bởi Đức Giáo Hoàng, trận đá banh giao hữu này sẽ đối đầu các cầu thủ vô địch bóng tròn quốc tế đại diện cho các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, cho chính nghĩa hòa bình trên thế giới.
Đức Giáo Hoàng đã rất vui mừng vì biến cố thể thao ngày hôm nay "mang tính biểu tượng rất cao" để xây dựng "một nền văn hóa hội ngộ và một thế giới hòa bình, nơi mà tín đồ các tôn giáo, tuy vẫn giữ căn tính của tôn giáo mình, vẫn có thể sống chung với nhau trong giao hòa và trong niềm tương kính".
Ngài đã khuyến khích giới thể thao hãy "tạo điều kiện cho sự trung thực, chia sẻ, đón nhận, đối thoại, tin tưởng lẫn nhau", là những giá trị mang tính cách "kết hợp mọi người bất kể chủng tộc, văn hóa và tín ngưỡng"
"Với trận đấu ngày hôm nay, các bạn sẽ nói "không" với mọi hình thức kỳ thị", ngài cũng đã tuyên bố với họ, nhấn mạnh rằng tôn giáo "có chức năng vận chuyển hòa bình chứ không phải thù hận, bởi vì nhân danh Thiên Chúa, người ta chỉ có thể mang đến tình yêu".
Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào buổi chiều quý bạn !
Tôi sung sướng được gặp gỡ các bạn nhân trận đấu bóng liên tôn cho hòa bình, mà các bạn sẽ chơi chiều này trên Vận Động Trường Olympic Rôma. Tôi cảm ơn các bạn bởi vì các bạn đã nhanh chóng đáp ứng ý muốn của tôi được thấy các nhà vô địch và các huấn luyện viên của các nước, các tôn giáo khác nhau trong một trận đấu thể thao, để thể hiện tình huynh đệ và bằng hữu. Tôi đặc biệt tỏ lòng biết ơn đối những người và những thực tế đã đóng góp vào sự thực hiện biến cố này. Tôi đặc biệt nghĩ đến "Scholas occrentes" đang hoạt động trong lòng Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Khoa Học, và đến "Quỹ Pupi Onlus".
Trận đấu chiều hôm nay chắc chắn sẽ là cơ hội thu nhập tài chánh để giúp đỡ các dự án liên đới, nhưng nhất là để suy nghĩ về các giá trị phổ quát mà môn bóng tròn và thể thao nói chung có thể gây thuận lợi cho : sự trung thực, sự chia sẻ, sự đón nhận, sự đối thoại, sự tin tưởng người khác. Đó là những giá trị mang tính kết hợp mọi người bất kể chủng tộc, văn hóa và tín ngưỡng. Biến cố thể thao chiều hôm nay là một cử chỉ mang tính biểu tượng rất cao để làm cho mọi người hiểu rằng có thể xây dựng nền văn hóa hội ngộ và một thế giới hòa bình, nơi mà tín đồ các tôn giáo khác nhau, tuy vẫn giữ căn tính của mình -bởi vì khi tôi nói "bất kể", điều này không có nghĩa là "để sang một bên" : không đâu- tín đồ của các tôn giáo khác nau, tuy vẫn giữ căn tính của mình, vẫn có thể sống chung trong hòa hợp và trong niềm tương kính.
Tất cả chúng ta đều biết rằng thể thao, đặc biệt là bóng tròn, là một hiện tượng nhân bản và xã hội rất quan trọng và có nhiều ảnh hưởng trên phong tục và tâm trạng con người đương đại. Thế giới, đặc biệt là giới trẻ, nhìn các bạn với lòng ngưỡng mộ vì thiên tài lực sĩ của các bạn : Quan trọng là phải nêu gương sáng trên sân đấu và cả ở ngoài sân đấu nữa. Trong những trận tranh giải thể thao, các bạn được kêu gọi cho thấy thể thao là niềm vui sống, là trò chơi, là lễ hội, và như thế phải được làm tăng giá trị khi tìm được tính miễn phí, khả năng của nó nhằm nối kết tình bạn và mở lòng ra với nhau. Qua thái độ hàng ngày của các bạn, mang nặng niềm tin và tinh thần, tính nhân bản và vị tha, các bạn có thể làm chứng cho những lý tưởng sống chung hòa bình dân sự và xã hội, để xây dựng một nền văn hóa trên tình yêu, trên tình liên đới và trên hòa bình. Và đây là nền văn hóa hội ngộ ; làm việc như thế.
Mong rằng cuộc giao đấu bóng tròn chiều nay có thể làm sống lại nơi những người tham gia ý thức về sự cần thiết phải dấn thân để cho thể thao mang lại một sự đóng góp có giá trị và phong phú cho sự chung sống hòa bình giữa mọi dân tộc, loại ra mọi hình thức kỳ thị chủng tộc, ngôn ngữ, và tôn giáo. Các bạn biết rằng kỳ thị có thể đồng nghĩa với "khinh miệt". Kỳ thị là một sự khinh miệt, với trận đấu này ngày hôm nay, các bạn sẽ nói "không" với mọi hình thức kỳ thị. Các tôn giáo, cách riêng, được kêu gọi phải chuyên chở hòa bình và không bao giờ là thù hận, bởi vì nhân danh Thiên Chúa, người ta chỉ có thể mang lại hòa bình. Tôn giáo và thể thao, hiểu theo cách đích thực này, có thể hợp tác và công hiến cho cả xã hội những dấu chỉ hùng hồn của thời buổi mới này khi con người "không còn vung kiếm đánh nhau nữa" (x. Is 2, 4).


Trong dịp đặc biệt và có ý nghĩa này, là cuộc giao đấu bóng tròn chiều nay, tôi mong muốn chuyển đến các bạn thông điệp này : các bạn hãy mở rộng tấm lòng của người anh em ra với anh em mình ! Chính đây là một trong những bí mật của cuộc đời : mở rộng lòng của người anh em cho các anh em mình; đó cũng là kích thước sâu đậm nhất và đích thực nhất của thể thao. Cảm ơn.
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 1 septembre 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/match-pour-la-paix-de-freres-a-freres

 

Tìm kiếm hiệp nhất thúc đẩy trở lại
Bài giáo lý ngày 27 tháng 8 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 27//8/2014 (Zenit.org)
Tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu "thúc đẩy trở lại, như là lòng can đảm sống hàng ngày sự hiệp nhất và sự thánh thiện" : quả vậy, "không thể đạt tới sự hiệp thông nếu không qua một sự trở lại liên tục", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định trong ngày 27/8/2014 này, trong phiên triều kiến chung, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Và sự trở lại này là "cầu xin Chúa ban ơn không nói xấu người khác, không chỉ trích, không nói hành, mà yêu mến mọi người. Chính điều đó là sự trở lại của tâm hồn" ngài xác định.
Đức Giáo Hoàng đã tiếp tục, sáng hôm thứ tư này, chu trình các bài giáo lý về Hội Thánh : sau "sáng kiến của Thiên Chúa", "sự thuộc" về Hội Thánh của Kitô hữu và chủ đề " Giao Ước mới và chư dân mới", Đức Giáo Hoàng đã suy ngẫm về Hội Thánh "duy nhất và thánh thiện".
Các Kitô hữu được kêu gọi hãy đi theo "con đường hiệp nhất mà Chúa Giêsu muốn", ngài tuyên bố : "trong một cộng đoàn Kitô hữu, sự chia rẽ là một trong những tội nghiêm trọng nhất, bởi vì nó là một chỉ dấu không phải từ công trình của Thiên Chúa, mà là công trình của ma quỷ".
Sự hiệp nhất của Hội Thánh quả có thể bị tấn công không những bởi những ly giáo, mà còn bởi những "những tội thường phạm trong các giáo xứ" : "đố kỵ, ghen tuông, ác cảm, nói xấu".
Đức Giáo Hoàng đã mời gọi các tín hữu hãy "xét mình" : "Chúng ta hãy thành tâm cầu xin sự tha thứ cho tất cả mọi lần mà chúng ta đã là những dịp chia rẽ hay hiểu lầm trong cộng đoàn của chúng ta".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Mỗi lần chúng ta tái tuyên xưng đức tin trong kinh "Tin Kính", chúng ta khẳng định rằng Hội Thánh là "duy nhất" và "thánh thiện". Hội Thánh là duy nhất, bởi vì Hội Thánh có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm hiệp nhất và tràn đầy hiệp thông. Và rồi Hội Thánh là thánh thiện, bởi vì Hội Thánh đã được xây dựng trên Đức Giêsu Kitô, thêm sinh lực nhờ Chúa Thánh Thần, được đổ đầy tình yêu và sự cứu độ của Người. Tuy nhiên, Hội Thánh vừa là thánh thiện và bao gồm những người tội lỗi, tất cả chúng ta, là những người tội lỗi, mỗi ngày đều trải nghiệm những sự mỏng giòn và những khốn khổ của chúng ta. Như vậy, đức tin mà chúng ta tuyên xưng thúc đẩy chúng ta tới sự trở lại, tới lòng can đảm để sống hàng ngày sự hiệp nhất và thánh thiện; nếu chúng ta không hiệp nhất, nếu chúng ta không thánh thiện, thì chính là bởi vì chúng ta không trung thành với Chúa Giêsu. Nhưng Người, Chúa Giêsu, không để cho chúng ta cô đơn, Người không bỏ rơi Hội Thánh của Người ! Người đồng hành với chúng ta, Người hiểu chúng ta. Người hiểu những yếu đuối và những tội lỗi của chúng ta, Người tha thứ cho chúng ta, miễn là chúng ta để cho Người tha thứ. Người luôn ở với chúng ta, giúp đỡ chúng ta trở nên ít tội lỗi hơn, thánh thiện hơn và hiệp nhất hơn.
1. Điều hỗ trợ tinh thần thứ nhất đến với chúng ta từ sự kiện Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều cho sự hiệp nhất của các môn đệ. Đó là lời cầu nguyện của bữa Tiệc Ly, khi Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin "Lậy Cha, xin cho họ nên một". Người đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất và Người đã làm điều đó ngay trước cuộc Khổ Nạn, trong lúc Người sẽ dâng hiến cả mạng sống Người vì chúng ta. Đó là điều chúng ta liên tục được yêu cầu phải đọc lại và suy niệm, trong một của những trang mạnh mẽ nhất, cảm động nhất của Tin Mừng theo thánh Gioan, chương 17 (x. Ga 17, 22-24). Thật là đẹp khi biết rằng Chúa, ngay trước lúc chết, đã không hề lo cho mình mà đã nghĩ đến chúng ta ! Và trong đối thoại thống thiết với Cha Người, Người đã chính xác cầu xin để chúng ta có thể hiệp nhất vời Người và giữa chúng ta. Như thế, qua những lời này, Chúa Giêsu đã đóng vai Đấng biện hộ cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha, để chúng ta cũng có thể đi vào sự hiệp thông tình yêu đầy đủ với Người; đồng thời, chính nơi chúng ta, Người đã gửi gấm như di chúc thiêng liêng của Người, để cho sự hiệp nhất có thể luôn trở thành đặc tính của các cộng đoàn Kitô giáo của chúng ta và là câu trả lời đẹp nhất cho tất cả những ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta (x. 1 Pr 3, 15).
2. "Để tất cả nên như một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21). Từ lúc đầu, Hội Thánh đã tìm cách thực hiện ý định này mà Chúa Giêsu hằng ôm ấp trong lòng. Sách Tông Đồ Công Vụ nhắc cho chúng ta rằng những Kitô hữu tiên khởi đã tỏ ra khác người bởi sự kiện là họ đã có "một lòng một ý" (Cv 4, 32); thánh Phaolô Tông Đồ sau đó đã khuyến khích các cộng đoàn của ngài đừng quên họ là "một thân thể" (1 Cr 12, 13). Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy những tội lỗi liên quan đến hiệp nhất thì rất nhiều. Và chúng ta đừng chỉ nghĩ đến những vụ ly giáo, mà hãy nghĩ đến những thiếu sót rất quen thuộc của các cộng đoàn, đến những tội lỗi "giáo đoàn", những tội lỗi trong các giáo xứ của chúng ta. Đôi khi, quả thật, các giáo xứ của chúng ta đáng lẽ được kêu gọi là những nơi chia sẻ và hiệp thông, thì buồn thay, lại bị hoen ố bởi những đố kỵ, ghen tuông, ác cảm… Và những vụ nói xấu thì ở trong tầm tay của hết cả mọi người. Có biết bao nhiêu lời nói xấu trong các giáo xứ ! Cái đó không tốt. Thí dụ, khi có một ông được bầu lên làm chủ tịch một hội đoàn, người ta nói xấu ông ấy. Và nếu có một bà được bầu làm người trách nhiệm về dậy giáo lý, những người khác nói xấu bà ta ngay. Nhưng Hội Thánh không phải là thế. Điều đó không thể hiện hữu được, chúng ta không được làm điều đó ! Phải cầu xin Chúa ơn đừng làm chuyện đó nữa. Điều này xảy ra khi chúng ta nhắm vào những chức vụ hàng đầu, khi chúng ta đặt mình là trung tâm, với những tham vọng cá nhân và những cách nhìn sự vật của chúng ta và chúng ta xét đoán người khác, khi chúng ta nhìn thấy những khuyết điểm của anh em chúng ta thay vì nhìn thấy những cống hiến của họ, khi chúng ta chú trọng nhiều đến những gì chia rẽ chúng ta hơn là những gì kéo chúng ta lại gần với nhau.
Có một lần kia, trong giáo phận cũ của tôi, tôi đã nghe một nhận xét vừa hay vừa đẹp. Người ta nói về một người lớn tuổi đã suốt đời làm vệc cho giáo xứ và có người biết rõ người đó đã nói : "Bà này không bao giờ nói xấu người khác, không bao giờ nói hành nói tỏi, bà luôn tươi cười" Một người phụ nữ như vậy có thể được phong thánh nay mai ! Đó là một tấm gương sáng. Và nếu chúng ta nhìn vào lịch sử Hội Thánh, đã có biết bao chia rẽ giữa chúng ta, các Kitô hữu. Ngay cả bây giờ, chúng ta còn đang chia rẽ. Cũng trong lịch sử, chúng ta đã gây chiến tranh giữa chúng ta vi những bất đồng về thần học. Chúng ta hãy nghĩ về những năm 30. Nhưng cái đó không phải là Kitô giáo. Chúng ta cũng phải làm việc cho sự hiệp nhất tất cả các Kitô hữu, đi trên con đường hiệp nhất vốn là con đường mà Chúa Giêsu muốn và đã cầu nguyện cho nó.
3. Trước tất cả điều này, chúng ta phải nghiêm túc xét mình. Trong một cộng đoàn Kitô giáo, sự chia rẽ là một trong những tội trầm trọng nhất, bởi vì thực ra nó là một dấu chỉ, không phải của công trình Thiên Chúa, mà là công trình của ma quỷ, theo định nghĩa, nó vốn là kẻ chia cắt, kẻ phá tan các quan hệ, kẻ gieo rắc các thành kiến… Sự chia rẽ trong một cộng đoàn Kitô giáo, dù là một trường học, một giáo xứ hay một hội đoàn, là một tội rất năng, bởi vì đó là công trình của ma quỷ. Trái lại, Thiên Chúa muốn chúng ta lớn lên trong khả năng đón nhận chúng ta, để tha thứ cho chúng ta và để thương yêu chúng ta, để mỗi ngày giống Người hơn, Người vốn là hiệp thông và tình yêu. Chính nơi đó là sự thánh thiện của Hội Thánh : tự nhận ra mình là hình ảnh của Thiên Chúa, được đổ đầy lòng thương xót và ơn phúc của Người.
Các bạn thân mến, chúng ta hãy làm vang lên trong lòng những lời của Chúa Giêsu : "Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5, 9). Chúng ta hãy thành tâm cầu xin tha thứ cho tất cả những lần mà chúng ta đã là dịp chia rẽ, hiểu lầm trong nội bộ các cộng đoàn của chúng ta, biết rõ rằng ta không thể đạt tới hiệp thông mà không thông qua một sự trở lại thường xuyên. Trở lại là gì ? Đó là cầu xin Chúa ơn phúc không nói xấu người khác, không chỉ trích, không nói hành, mà yêu thương mọi người. Đó là ơn phúc mà Chúa ban cho chúng ta. Đúng cái đó là sự trở lại của tâm hồn. Và chúng ta hãy cầu xin cho những quan hệ hàng ngày của chúng ta có thể trở thành một sự phản ánh luôn đẹp hơn và vui hơn của quan hệ giữa Chúa Giêsu và Cha Người.
Lời chào bằng tiếng Ả-Rập
Tôi thân mến chào mừng các khách hành hương nói tiếng Ả-rập, đặc biệt những người đến từ Trung Đông. Các bạn thân mến, chúng ta hãy thành thật cầu xin sự tha thứ cho mọi lần chúng ta đã là dịp chia rẽ hay hiểu lầm trong nội bộ các cộng đoàn chúng ta, biết chắc rằng không thể đạt đến hiêp tthông mà không thông qua một sự trở lại liên tục. Xin Chúa chúc lành cho các bạn !
Lời chào bằng tiếng Ba Lan
Tôi chúc mừng các khách hành hương Ba Lan. Anh chị em thân mến, ngày hôm qua, anh chị em đã cử hành trọng thể Đức Trinh Nữ ở Jasna Góra. Tôi xin ký gửi tất cả anh chị em, cũng như các gia đình và toàn thể quốc gia Ba Lan, cho Mẹ. Xin tình thương từ mẫu luôn dẫn dắt anh chị em đến với Chúa Kitô trên những con đường của chân lý, của thiện ích và yêu thương lẫn nhau. Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em !
Lới chào bằng tiếng Ý
Sau hết, tôi nói với các ban trẻ, các bệnh nhân và những cặp tân hôn. Ngày hôm nay, chúng ta kính nhớ nữ thánh Mônica, mẹ của thánh Âugustin. Các bạn trẻ thân mến, xin tình yêu của Chúa chỉ cho các bạn, vị trí trung tâm của Thiên Chúa trong cuộc đời các bạn, xin Người khuyến khích các bạn bệnh nhân thân mến, để bằng đức tin, đương đầu với những lúc đau đớn và xin Người thêm sức cho các bạn tân hôn để giáo dục theo Kitô giáo các con cái mà Chúa sẽ ban cho các bạn. Cảm ơn !
Bản dịch tiếng Pháp : Constances Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(27 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-recherche-de-l-unite-pousse-a-la-conversion

 

Giáo Hội xây dựng trên đức tin của mỗi tín hữu
Kinh Truyền Tin ngày 24 tháng 8 năm 2014  

Rôma – 24/8/2014 (Zenit.org)
Mỗi người đã chịu Phép Rửa được kêu gọi hãy dâng tiến lên Chúa Giêsu đức tin của chính mình, nghèo khó nhưng chân thành, để Người có thể tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Người, ngày hôm nay, khắp trên thế giới", Đức Giáo Hoàng tuyên bố trong giờ Kinh Truyền Tin ngày 24/8/2014 này.
Để làm như vậy, không cần phải có "một đức tin toàn hảo" : một đức tin "chân thành, tự phát", khiến cho người tín hữu trở thành "những phiến đá sống động để xây dựng cộng đoàn", ngày xác định.
Đức Giáo Hoàng đã chủ trì giờ kinh Đức Mẹ, từ cửa sổ văn phòng mở ra quảng trường Thánh Phêrô, hồi trưa nay, một ngày chúa nhật nắng đẹp.
Nhắc lại bài Phúc Âm hôm nay – thánh Phêrô tuyên xưng đức tin - Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh : "Điều xẩy đến duy nhất cho thánh Phêrô, cũng xẩy đến cho mỗi Kitô hữu với đức tin chân thành chín mùi nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Bài Phúc Âm hôm nay cũng chất vấn mỗi người trong chúng ta. Đức tin của con như thế nào ? Chúa Giêsu thấy lòng con như thế nào ? Một tâm hồn vững chắc như đá hay một tâm hồn cát bụi, nghĩa là đầy những nghi nan, ngờ vực, không tin ?"
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Bài Phúc Âm chúa nhật này (Mt 16, 13-20) là đoạn văn nổi tiếng, trọng tâm trong câu chuyện của thánh Mátthêu, khi ông Simon, nhân danh nhóm Mười Hai, tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu như là "Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống"; và Chúa Giêsu gọi ông Simon là "người có phúc" vì đức tin này, và công nhận đây là ân điển đặc biệt của Chúa Cha, và phán với ông rằng : "Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy".
Chúng ta hãy dừng lại giây lát trên điểm này, trên sự kiện Chúa Giêsu ban cho ông Simon cái tên mới là : "Phêrô", mà trong ngôn ngữ của Chúa Giêsu đọc là "Kêfa", một chữ có nghĩa là "tảng đá". Trong Kinh Thánh từ "tảng đá" có ý chỉ Thiên Chúa. Chúa Giêsu ban tên này cho ông Simon không vì các đức tính hay công trạng con người của ông, mà vì đức tin tự phát và vững chắ của ông, đến từ bên trên.
Chúa Giêsu cảm thấy trong lòng Người một niềm vui lớn, vì Người nhận ra trong ông Simon, bàn tay của Chúa Cha, tác động của Chúa Thánh Thần. Người nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đã ban xuống cho ông Simon một đức tin "đáng tin cậy", trên đó Người, Chúa Giêsu, có thể xây dựng Giáo Hội "của Người", một dân tộc xây dựng không phải trên con cháu mình, mà trên đức tin, nghĩa là trên quan hệ với chính Người, một quan hệ tình yêu và tin tưởng. Quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội. Như thế, để bắt đầu Giáo Hội của Người, Chúa Giêsu đã cần tìm thấy trong các môn đệ một đức tin vững chắc, một đức tin "đáng tin cậy". Đó là điều Người phải kiểm chứng vào lúc này trên hành trình.
Chúa có trong đầu hình ảnh của sự xây dựng, hình ảnh của cộng đoàn như một kiến trúc. Bởi vậy, khi Người cảm nhận sự tuyên xưng đức tin của ông Simon, Người đã gọi ông ta là "đá" và bầy tỏ ý định xây dựng Giáo Hội của Ngưòi trên đức tin đó.
Thưa anh chị em, điều đã duy nhất xẩy đến cho thánh Phêrô, cũng xẩy đến cho mỗi Kitô hữu đang làm chín mùi một đức tin chân thành nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Bài Phúc Âm ngày hôm này cũng chất vấn mỗi người chúng ta. Đức tin của con như thế nào ? Chúa Giêsu thấy lòng con như thế nào ? Một tâm hồn vững chắc như đá hay một tâm hồn cát bụi, nghĩa là đầy những nghi nan, ngờ vực, không tin ? Điều này sẽ có ích cho chúng ta khi nghĩ đến mỗi ngày. Nếu Chúa tìm thấy trong lòng chúng ta một đức tin, tôi không nói là toàn hảo, nhưng chân thành, tự phát, thì Người cũng thấy nơi chúng ta những phiến đá sống động để Người xây dựng cộng đoàn của Người. Từ cộng đoàn này, phiến đá căn bản là Đức Kitô, phiến đá góc và duy nhất. Về phía ngài, ông Phêrô là đá như là nền móng hiển thị sự thống nhất của Giáo Hội; nhưng mỗi người tín hữu được kêu gọi hãy tiến dâng lên Chúa Giêsu đức tin của riêng mình, nghèo khó nhưng chân thành, để Người có thể tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Người ngày hôm nay, khắp các nơi trên thế giới.
Ở thời đại này của chúng ta, nhiều người nghĩ rằng Chúa Giêsu là một đấng tiên tri lớn, một vị thầy khôn ngoan, một mẫu hình công lý… Và cũng ngày hôm nay, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Người, nghĩa là tất cả chúng ta : "Và anh em, anh em nói sao ? Đối với anh em, Thầy là ai ?". Chúng ta sẽ trả lời Người thế nào ? Chúng ta hãy suy nghĩ đi. Nhưng trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện Thiên Chúa Cha, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria; chúng ta hãy cầu nguyện Người ban cho chúng ta ơn trả lời, với một tấm lòng chần thành : "Người là Đức Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống". Đó là một sự tuyên xưng đức tin, đó đúng là một "kinh Tin Kính". Chúng ta hãy cùng nhau nhắc lại ba lần : "Người là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Sau Kinh Truyền Tin
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cầu nguyện cho những nạn nhân của cuộc tranh chấp,tại Ukraine, cho gia đình họ và cho tất cả những người đau khổ, sau Kinh Truyền Tin của ngày 24/8/2014 này trên quảng trường Thánh Phêrô.
Sau kinh kính Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng đã nhắc đến "đất nước Ukraine yêu quý", mà ngày hôm nay là ngày lễ Quốc Khánh.
Ngài đã mời gọi đám đông hiện diện hãy cùng ngài cầu nguyện, thương xót nho những đau khổ chồng chất của dân chúng Ukraine.
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kuria (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(24 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-eglise-se-construit-sur-la-foi-de-chaque-baptise

 

Trung Quốc : Tòa Thánh "mở ra cho những tiếp xúc"
Đức Giáo Hoàng ca tụng "nhân dân cao quý và tốt lành của Trung Quốc"

 

Rôma – 21/8/2014 (Zenit.orgAnne Kurian
Tòa Thánh luôn mở ra cho những tiếp xúc, bởi vì Tòa Thánh có một sự ngưỡng mộ đích thực đối với nhân dân Trung Quốc", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định khi trả lời những câu hỏi của các nhà báo trên phi cơ từ Seoul trở về Rôma, sau chuyến tông du 5 ngày tại Nam Hàn (13-18/8/2014).
Trước đây, chúng tôi có công bố các lời tuyên bố của Đức Giáo Hoàng liên quan đến tình hình ở Irak và Thánh Địa.
Trong khi phi cơ bay trên không phận Trung Quốc, Đức Giáo Hoàng đã khẳng định rằng "Tòa Thánh luôn mở ra cho những tiếp xúc, luôn luôn, bởi vì ngài có một sự quý mến đích thực đối với nhân dân Trung Quốc".
Trong chuyến bay đi từ Rôma đến Seoul, hôm 13/8, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi một bức điện tín lịch sử cho Trung Quốc, và gửi phép lành xuống cho nhân dân Trung Quốc : quả đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chiếc máy bay chở Đức Giáo Hoàng đã được bay trên nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, với sự cho phép của Bắc Kinh.
Đức Giáo Hoàng đã đích thân kể lại trước các phóng viên : "Trong chuyến đi, khi bay vào không phận Trung Quốc, tôi đã ở trong buồng lái với các phi công và một người trong họ đã chỉ cho tôi một cuốn sổ và ông nói với tôi : "Trong 10 phút nữa, chúng ta sẽ bay vào không phận Trung Quốc, chúng ta phải xin phép : phải luôn xin phép… đó là tự nhiên, phải xin phép ở mỗi quốc gia"… và tôi đã nghe người ta xin phép như thế nào, và người ta đã trả lời như thế nào… Và phi công đã nói : "Bây giờ, phải gửi điện tín đi".
"Sau đó, Đức Giáo Hoàng nói thêm, tôi đã rời những người đó, tôi trở về chỗ ngồi của tôi và tôi đã cầu nguyện rất nhiều cho dân tộc tốt lành và cao quý của Trung Quốc, một dân tộc khôn ngoan… tôi nghĩ đến những nhà hiền triết Trung hoa, đến lịch sử của khoa học, của sự khôn ngoan… Các tu sĩ Dòng Tên nữa : chúng ta có một lịch sử ở đó, với cha Matteo Ricci… Và tất cả đã hiện ra trong tâm trí tôi".
Đức Giáo Hoàng cũng đã thổ lộ ý muốn đi Trung Quốc : "Nhưng chắc chắn, là ngày mai ! Chúng ta tôn trọng dân tộc Trung Hoa, Giáo Hội chỉ yêu cầu được tự do tác nghiệp, việc làm của Giáo Hội, không có điều kiện nào khác".
Để xem xét "vấn đề Trung Hòa", ngài đã dựa vào "Điệp văn chủ yếu gửi cho người Trung Hoa bởi ĐGH Biển Đức XVI (30/6/2007). Điệp văn này vẫn mang tính thời sự. Đọc lại nó vẫn là điều có ích".
Trong điệp văn này, ĐGH Biển Đức XVI đoan chắc sự sẵn sàng của Tòa Thánh đối thoại với nhà cầm quyền dân sự Trung Quốc và nhắc lại lập trường của Giáo Hội về tự do tôn giáo : "Giải pháp cho các vấn đề hiện hữu không thể tìm thấy trong một cuộc tranh chấp dai dẳng với các Nhà Cầm Quyền hợp pháp: trong cùng lúc đó, một sự nhân nhượng đối với cũng những Nhà Cầm Quyền đó lại không được chấp thuận khi những người này can thiệp một cách không chính đáng vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội.
Trước các Đức Giám Mục Á Châu, hội họp tại thánh địa Haemi ở Hàn Quốc, Đức Giáo Hoàng Phanxicô; tuy không kể tên nhưng đã đề cập đến những quốc gia mà Tòa Thánh chưa có quan hệ ngoại giao đầy đủ "cần đẩy mạnh một cuộc đối thoại có lợi cho tất cả mọi người" : một cuộc đối thoại mà ngài muốn mang tính "huynh đệ", "trái tim nói với trái tim".
Tòa Thánh và Trung Quốc không có quan hệ ngoại giao từ những năm 1950, EDA (Giáo Hội Á Châu) nhắc nhở, EDA là thông tấn của Hội Thừa Sai Paris : "Sau cuộc cướp chính quyền bởi những người cộng sản trên lục địa năm 1949, Đức cha Riberi, khâm sứ Tòa Thánh tại Trung Hoa, đã bị trục xuất năm 1951 bởi chế độ Mao Trạch Đông. Năm sau đó, tòa khâm sứ được di chuyển tới Đài Bắc. Sau những năm 1950/60 – xẩy ra các cuộc bách hại đối với Giáo Hội tại Trung Quốc nhân dân – chính sách mở cửa được Đặng Tiểu Bình đưa ra từ năm 1979 đã giúp cho một sự nối lại dần dần những tiếp xúc giữa Giáo Hội Trung Hoa với Giáo Hội hoàn vũ, nhưng không vì thế mà quan hệ giữa Vatican và Bắc Kinh được cải thiện hoàn toàn".
Trong một cuộc trao đổi được tờ báo Corriere della Sera công bố ngày 05/3/2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiết lộ rằng ngài đã viết cho chủ tịch Tập Cận Bình và ông này đã phúc đáp ngài. "Chúng ta gần gũi với Trung Quốc. Có những quan hệ. Đó là một dân tộc vĩ đại mà tôi yêu mến", Đức Giáo Hoàng nói thêm.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nói tới Trung Quốc. Ngay khi diễn ra mật nghị bầu ngài, ngài đã tâm sự với Đức Hồng Y người Trung Hoa Gioan Tong Hon, tổng giám mục Hồng Kông, rằng "Giáo Hội ở Trung Quốc luôn ở trong tim [ngài]".
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(21 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/chine-le-saint-siege-ouvert-aux-contacts

 

Bản tổng kết chuyến tông du Nam Hàn Của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Bài giáo lý ngày 20 tháng 8 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 20/8/2014 (Zenit.orgPape François
Ký ức, hy vọng, làm chứng" : ba chữ này tóm tắt ý nghĩa chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Nam Hàn.
Ngài đích thân giải thích trong bài giáo lý ngày 20/8/2014 này, trong đại sảnh Phaolô VI của điện Vatican. Trong buổi triều kiến chung, Đức Giáo Hoàng quả đã gián đoạn chu kỳ bài giáo lý về Giáo Hội của ngài để làm bản tổng kết chuyến tông du của ngài, hai ngày sau khi ngài trở về (13-18/8/2014).
Ngài nhấn mạnh đến "hai biến cố của chuyến đi này : lễ tuyên phong chân phước cho 124 vị tử đạo Hàn Quốc, bổ sung cho các vị đã được phong hiển thánh cách đây 30 năm bởi thánh Gioan Phaolô II và cuộc gặp gỡ với giới trẻ, nhân Đại Hội Giới Trẻ Á Châu Kỳ VI".
"Tôi đã khuyến khích các Kitô hữu của ngày hôm nay hãy đại lượng trong việc cha sẻ với những người nghèo khổ nhất", Đức Giáo Hoàng nói thêm, và khẳng định rằng "Đức Kitô không hủy bỏ văn hóa, không bãi bỏ điều gì là tốt, mà Người làm cho nó thăng tiếng, Người mang nó đến chỗ viên mãn".
"Ngược lại, điều mà Đức Kitô chống lại và phá hủy, đó là quỷ dữ, đang gieo rắc bất hòa giữa những con người, giữa các dân tộc, đang tạo nên sự loại bỏ bởi vì tôn thờ tiền bạc, đang gieo rắc nọc độc của sự trống rỗng trong trái tim giới trẻ. Điều này, đúng, Chúa Giêsu Kitô đã chiến đấu và đã chiến thắng bởi sự hy sinh của tình yêu", ngài nói tiếp.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Trong những ngày này, tôi đã hoàn thành chuyến tông du Hàn Quốc và hôm nay, cùng với anh chị em, tôi tạ ơn Chúa vì món quà lớn lao này. Tôi đã có thể thăm viếng một Giáo Hội trẻ trung và năng động, được xây dựng trên sự làm chứng của các thánh tử đạo và được làm sống động bởi một tinh thần thừa sai, trong một đất nước là nơi gặp gỡ của những nền văn hóa Á Châu cổ đại và điều mới lạ lâu dài của Tin Mừng : Hai thứ đó gặp nhau.
Tôi muốn thêm một lần nữa biểu lộ sự biết ơn của tôi với các quý huynh giám mục Hàn Quốc, với Bà Tổng Thống Đại Hàn Dân Quốc, với các quan chức và tất cả mọi người đã đóng góp cho cuộc viếng thăm của tôi.
Ý nghĩa của chuyến tông du này có thể tóm lược bằng ba chữ : ký ức, hy vọng, làm chứng.
Đại Hàn Dân Quốc là một đất nước đang có một sự phát triển kinh tế đáng kể và nhanh chóng. Dân chúng rất xiêng năng lao động, kỷ luật, có thứ tự và họ đã gìn giữ được sức mạnh mà họ kế thừa của tổ tiên họ.
Trong tình trạng này, Giáo Hội là người giữ gìn ký ức và hy vọng : đó là một gia đình thiêng liêng trong đó người lớn truyền lại cho người trẻ bó đuốc đức tin mà họ cũng đã nhận được từ những người trưởng thượng; ký ức của những người chứng của quá khứ trở thành một chứng tác mới trong hiện tại và một niềm hy vọng cho tương lai. Chính trong viễn cảnh nằy mà người ta có thể đọc được hai biến cố chính của chuyển đi này : việc tuyên phong chân phước cho 124 vị tử đạo Hàn Quốc, mà số lượng cộng vào với những vị đã được phong hiển thánh từ 30 năm truớc đây bởi thánh Gioan Phaolô II, và sự gặp gỡ với giới trẻ, nhân dịp Đại Hội Giới Trẻ Á Châu Kỳ VI.
Một người trẻ luôn luôn là một người đi tìm lý do tại sao phải sống trên đời và việc tử vì đạo làm chứng cho chuyện gì, hay đúng hơn cho Đấng nào đáng cho mình cống hiến cả mạng sống của mình. Chân lý đó là tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể nơi Chúa Giêsu, chứng tá của Chúa Cha. Trong hai thời khắc của chuyến đi dành cho giới trẻ, Thần Khí Chúa phục sinh đã làm cho chúng tôi tràn đầy niềm vui và một niềm hy vọng rằng các bạn trẻ sẽ mang về trong đất nước của họ và sẽ làm nhiều điều tốt lành.
Giáo Hội Hàn Quốc đã giữ được ký ức về vai trò hàng đầu của các tín hữu giáo dân, kể cả vào thuở bình minh của đức tin trong công trình loan truyền Phúc Âm của họ. Quả thật, trên mảnh đất này, các cộng đoàn Kitô hữu đã không được xây dựng bởi các vị thừa sai, nhưng bằng một nhóm người trẻ Hàn Quốc của hạ bán thế kỷ thứ 18; họ đã bị mê mẩn bởi các sách Kitô giáo, đã học tập hết mình các sách đó và đã chọn những sách đó làm khuôn mẫu cho cuộc đời. Một trong bọn họ đã được gửi đi Bắc Kinh để nhận Phép Rửa và sau đó người giáo dân này đã rửa tội cho các bạn mình. Từ cái nhân đầu tiên đó, một cộng đoàn to lớn đã phát triển, và từ khởi thủy và trong cả một thế kỷ, đã chịu đựng những cuộc bách hại dữ dội, làm cho hàng ngàn người tử vì đạo. Giáo Hội Hàn Quốc như vậy, đã được xây dựng trên đức tin, trên sự dấn thân truyền giáo và trên sự tử vì đạo của các tín hữu giáo dân.
Các Kitô hữu Hàn Quốc đầu tiên đã lấy làm gương mẫu cộng đoàn tông đồ của Giêrusalem, thực hành tình yêu huynh đẹ vượt lên khỏi mọi khác biệt xã hội. Vì thế tôi đã khuyến khích các Kitô hữu của ngày hôm nay hãy rộng lòng chia sẻ với người nghèo và những người bị loại bỏ, theo Tin Mừng thánh Mátthêu, ở chương 25 : "mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40)
Anh em thân mến, trong lịch sử đức tin ở Hàn Quốc, người ta thấy rằng Chúa Kitô không hủy bỏ văn hóa, cũng không bãi bỏ hành trình của các dân tộc, qua nhiều thế kỷ và nhiều thiên kỷ, đang đi tìm chân lý và thực hành tình yêu Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Đức Kitô không bãi bỏ điều gì là tốt đẹp, mà Người làm cho nó thăng tiến, Người mang nó đến chỗ viên mãn.
Ngược lại, điều mà Đức Kitô chống lại và phá hủy, đó là quỷ dữ, đang gieo rắc bất hòa giữa những con người, giữa các dân tộc, đang tạo nên sự loại bỏ người ta bởi vì tôn thờ tiền bạc, đang gieo rắc nọc độc của sự trống rỗng trong trái tim giới trẻ. Điều này, đúng, Chúa Giêsu Kitô đã chiến đấu và đã chiến thắng bởi sự hy sinh của tình yêu. Và nếu chúng ta ở trong Người, trong tình yêu của Người, cả chúng ta nữa, cũng như các thánh thử đạo, chúng ta có thể sống và làm chứng cho chiến thắng của Người. Chính với đức tin này mà chúng ta đã cầu nguyện, và cả bây giờ nữa, chúng ta hãy cầu nguyện để cho tất cả các con cái trên đất Hàn Quốc không còn phải chịu những hậu quả của chiến tranh, phân chia, để họ có thể thực hiện một hành trình huynh đệ và hòa giải.
Chuyến đi này đã được chiếu sáng bởi Lễ Đức Mẹ Lên Trời. Từ trên đó, nơi Mẹ ngự trị với Chúa Kitô, Đức Mẹ Giáo Hội tháp tùng hành trình của dân Thiên Chúa, nâng đỡ những bước chân nặng nề, an ủi những người trong cơn thử thách và giữ cho chân trời hy vọng luôn rộng mở. Nhờ sự chuyển cầu từ mẫu, xin Chúa luôn chúc lành cho nhân dân Hàn Quốc, ban cho họ hòa bình và thịnh vượng : và xin Chúa chúc lành cho Giáo Hội đang sống trên giải đất này, để Giáo Hội sinh nhiều hoa trái và tràn đầy niềm vui Tin Mừng.
Những lời chào hỏi sau bài giáo lý (bằng tiếng Ý)
Các bạn hành hương nói tiếng Ý thân mến, hoan nghênh các bạn ! Tôi sung sướng đón chào Gia Đình Thừa Sai Donum Dei và các tham dự viên của chuyến hành hương bằng thuyền chèo của Hội Hàng Hải Ý, đến từ Lorette ở Saint-Pierre. Hôm nay, trong phiên triều kiến này, có hai nhóm can đảm : những người đến bằng thuyền chèo của Lorette và những người Pháp đến đây trên lưng những con lừa nhỏ. Ngợi khen hai nhóm can đảm này! Tôi chào mừng các nhóm giáo xứ, các đoàn thể và các gia đình đã tham gia cuộc Đi Bộ Phan Sinh lần thứ ba từ đảo Sicile đến Assisi. Tôi xin chúc tất cả là cuộc gặp gỡ này sẽ khơi dậy một sự dấn thân mới cho hòa bình và liên đới đối với những người bần cùng.
Tôi rất cảm ơn anh chị em vì những lời cầu nguyện của anh chị em và những lời phân ưu vì điều đã xẩy ra trong gia đình tôi. Đức Giáo Hoàng cũng có một gia đình chứ. Chúng tôi có 5 anh em; tôi có 16 đứa cháu và một trong các cháu đã bị tai nạn xe hơi : vợ cháu đã mất, cùng với hai đứa con nhỏ, một đứa hai tuổi và đứa kia mới có mấy tháng, và cháu tôi hiện nay cũng đang trong tình trạng nguy ngập. Tôi cảm ơn rất nhiều, rất nhiều vì những lời phân ưu và kinh nguyện của anh chị em.
Tôi gửi một ý nghĩ đặc biệt tới các bạn trẻ, nhất là các em của giáo phận Thánh Miniato và Livourne, tới các bệnh nhân và những cặp vợ chồng mới cưới. Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ thánh Bernardô, cha xứ và Tiến Sĩ Hội Thánh. Cầu xin lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria của ngài, ngài từng gọi mẹ Sao Biển (Stella Maris), ban cho anh chị em thần hứng trong đời sống Kitô giáo của anh chị em : chúng ta hãy học cách nhìn lên và cầu nguyện Mẹ Maria để đừng bao giờ thua trận tội lỗi và để có thể sống bằng những hoa quả của ơn phúc ban xuống cho chúng ta bởi Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Vệt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(20 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/bilan-du-voyage-apostolique-en-coree-du-sud

 

 

Tha thứ, cửa ngõ của hòa giải
Thánh Lễ cho hòa bình và hòa giải – nhà thờ chính tòa Séoul

Rôma – 18/8/2014 (Zenit.org)
Tha thứ là cửa ngõ dẫn đến hòa giải", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định sáng nay, thứ hai 18/8/2014, tại nhà thờ chính tòa Myeong-dong ở Seoul. Ngài cầu nguyện cho sự thống nhất của Đại Hàn, "một gia đình duy nhất và một dân tộc duy nhất" "cùng nói một ngôn ngữ".
Sau bốn ngày đầy những cuộc gặp gỡ và lễ mừng, quả thật, Đức Giáo Hoàng đã kết thúc chuyến tông du Hàn Quốc của ngài (từ 13 đến 18/8/2014) bằng một Thánh Lễ cầu cho hòa bình và hòa giải, trước sự hiện diện của Bà Park Geun-hye, Tổng Thống Đại Hàn Dân Quốc, sáng nay lúc 09giờ45 giờ địa phương.
Đức Giáo Hoàng đã mời gọi hãy có một lựa chọn "triệt để" : "tha thứ cho các anh em không một hạn chế nào". "Điều mà trên quan điểm con người, dường như không thể được, không thể thực hiện, kể cả đôi khi ghê tởm, Chúa Giêsu đã làm cho có thể và mang hoa trái bởi quyền lực vô biên của cây Thánh Giá Người", ngài nói thêm : "Anh chị em hãy tin tưởng vào quyền năng của Thánh Giá Chúa Kitô ! Hãy đón nhận ơn hòa giải trong lòng mình và chia sẻ ơn đó với những người khác !"
Người đã kêu gọi người dân Hàn Quốc "hãy cương quyết đẩy lùi một tâm tính xây dựng trên nghi kỵ, trên đối đầu và trên tranh đua, và thay vào đó, hãy giúp cho một nền văn hóa được tạc hình bởi giáo huấn của Phúc Âm và bởi những giá trị cổ truyền cao quý của dân tộc Đại Hàn".
Với các Kitô hữu, Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu "đưa ra một sự làm chứng mang tính thuyết phục cho thông điệp hòa giải của Chúa Kitô, trong gia đình, trong các cộng đoàn của anh chị em và trong mọi lãnh vực của đời sống quốc gia".
A.K.
Huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Anh chị em thân mến,
Những ngày tôi ở Hàn Quốc đã đi đến lúc kết thúc và tôi chỉ có thể tạ ơn Thiên Chúa vì nhiều những chúc lành Người đã ban xuống cho đất nước thân yêu này và, cách riêng, cho Giáo Hội tại Hàn Quốc. Trong những chúc lành đó, tôi đặc biệt giữ lại kinh nghiệm, cùng sống trong những ngày qua, sự hiện diện của nhiều người hành hương trẻ đến từ khắp Châu Á. Tình yêu của họ với Chúa Giêsu và lòng hăng hái của họ cho việc loan truyền Nước Người đã là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người.
Và bây giờ, chuyến thăm viếng của tôi đã đạt đến đỉnh cao với việc cử hành Thánh Lễ này, trong đó chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa ban ơn Hòa Bình và Hòa Giải. Lời cầu nguyện này có một tiếng vang đặc biệt trên bán đảoTriều Tiên. Thánh Lễ ngày hôm nay trước hết và chính yếu là một lời cầu nguyện cho hòa giải của gia đình Hàn Quốc này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng kinh nguyện của chúng ta sẽ mạnh mẽ biết bao khi hai hay ba người họp lại nhân danh Người để cầu xin chuyện gì (x. Mt 18, 19-20). Huống hồ khi cả một dân tộc dâng lên trời lời kêu cầu bức thiết !
Bài đọc Một trình bày lời hứa của Thiên Chúa sẽ khôi phục, trong sự thống nhất và trong sự phồn vinh, một dân tộc tản mác trong đau khổ và chia rẽ. Đối với chúng ta, cũng như đối với dân Israel, đó là một lời hứa đầy hy vọng : nó chỉ ra một tương lai mà, ngay từ bây giờ, Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta. Tuy nhiên, lời hứa đó gắn liền không chia cắt được với một giới răn : giới răn phải trở lại với Thiên Chúa và hết lòng vâng theo lề luật của Người (x. Đnl 30, 2-3). Thánh ân hòa giải, thống nhất và hòa bình gắn liền không thể chia cắt được với ơn trở lại : đây là một sự biến đổi con tim có thể thay đổi dòng chẩy của cuộc đời và của xã hội chúng ta, như các cá nhân và như một dân tộc.
Đương nhiên, trong Thánh Lễ này, chúng ta lắng nghe lời hứa đó trong bối cảnh kinh nghiệm lịch sử của dân tộc Hàn Quốc, một kinh nghiệm của chia rẽ và tranh chấp đã kéo dài từ hơn 60 năm nay rồi. Nhưng lời mời gọi bức bách của Thiên Chúa cho sự trở lại cũng kêu gọi các môn đệ Chúa Kitô ở Hàn Quốc hãy nghiên cứu phẩm chất sự đóng góp của họ cho việc xây dựng một xã hội công bình và nhân bản. Nó kêu gọi mỗi người trong anh chị em hãy suy nghĩ về phương cách anh chị em làm chứng, như những cá nhân và như các cộng đoàn, cho một sự dấn thân Phúc Âm cho những người thiệt thòi, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cho những người không có công ăn việc làm hay bị thải loại ra khỏi sự phồn vinh của nhiều người. Lời mời gọi này kêu gọi anh chị em, như những người Kitô hữu, như những người Hàn Quốc, hãy cương quyết đẩy lùi một tâm tính xây dựng trên nghi kỵ, trên đối đầu và trên tranh đua, và thay vào đó, hãy giúp cho một nền văn hóa được tạc hình bởi giáo huấn của Phúc Âm và bởi những giá trị cổ truyền cao quý của dân tộc Đại Hàn.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, Thánh Phêrô hỏi Chúa : "Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bẩy lần không ?" Đức Giêsu đáp : "Thầy không bảo là đến bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy" (Mt 18, 21-22). Những lời này đi thẳng vào trung tâm của thông điệp hòa giải và hòa bình do Chúa Giêsu đưa ra. Khi tuân thủ giới răn của Người, chúng ta hàng ngày cầu xin với Cha trên Trời tha tội cho chúng ta, "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con". Nếu chúng ta không sẵn sàng thực hành như thế, thì làm sao chúng ta có thể thật tâm cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải ?
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hãy tin rằng tha thứ là cửa ngõ dẫn tới hòa giải. Bằng cách chỉ thị cho chúng ta tha thứ không hạn chế cho anh em chúng ta, Người yêu cầu chúng ta làm điều gì hoàn toàn triệt để, nhưng Người cũng ban cho chúng ta ơn phúc để thự hiện điều đó. Điều mà trên quan điểm con người, dường như không thể , không thực hiện được, kể cả đôi khi ghê tởm, Chúa Giêsu khiến cho nó có thể và có kết quả bởi quyền phép vô biên của cây Thánh Giá Người. Thánh Giá Chúa Kitô cho thấy quyền năng Thiên Chúa có thể làm tiêu tan mọi chia rẽ, chữa lành mọi vết thương và phục hồi những quan hệ nguyên thủy của tình yêu huynh đệ.
Đó là thông điệp mà tôi để lại cho anh chị em để kết thúc chuyến viếng thăm Hàn Quốc của tôi. Anh chị em hãy tin tưởng vào sức mạnh của cây Thánh Giá Chúa Kitô ! Anh chị em hãy đón nhận ơn hòa giải trong tâm hồn anh chị em và hãy chia sẻ nó với những người khác ! Tôi xin anh chị em hãy đưa ra một chứng tác mang tính thuyết phục cho thông điệp hòa giải của Đức Kitô, trong gia đình, trong cộng đoàn và trong mọi lãnh vực của đời sống quốc gia. Tôi xác tín rằng, trong tinh thần bằng hữu và hợp tác với các Kitô hữu khác, với các tín đồ các tôn giáo khác và với tất cả những người nam, nữ có thiện chí cùng ôm ấp trong lòng tương lai của xã hội Hàn Quốc, anh chị em sẽ là men của Nước Thiên Chúa trên trái đất này. Lúc đó, kinh nguyện của chúng ta cho hòa bình và hòa giải sẽ lên đến bên Thiên Chúa từ những con tim trong sạch hơn, và nhờ ơn phúc của Người, sẽ đạt được của cải quý báu mà tất cả chúng ta đều mong đợi.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự xuất hiện của những cơ hội đối thoại, gặp gỡ và vượt qua những dị biệt mới, để một sự rộng lượng liên tục có thể cung cấp cứu trợ nhân đạo cho tất cả những ai đang ở trong hoàn cảnh thiếu thốn và để một sự công nhận luôn ngày càng gia tăng rằng tất cả mọi người dân Hàn Quốc đều là anh chị em của nhau, là những thành viên của cùng một gia đình và cùng một dân tộc. Họ cùng nói một thứ tiếng.
Trước khi rời Hàn Quốc, tôi muốn cảm ơn Bà Thổng Thống Đại Hàn Dân Quốcc, các Quan Chức dân sự và giáo sĩ và tất cả những người đã, bằng cách này hay cách khác, giúp cho chuyến viếng thăm này có thể thực hiện được. Và đặc biệt, tôi muốn nói lên một lời biết ơn cá nhân với các linh mục của Hàn Quốc, là nnhững người hàng ngày làm việc phục vụ Tin Mừng và xây dựng Dân Chúa trong đức tin, đức cậy và đức mến. Tôi yêu cầu anh em, như những vị đại sứ của Đức Kitô và các thừa tác nhân của tình yêu hòa giải của Người (x. Cr 5, 18-20), hãy tiếp tục xây dựng những quan hệ tôn kính, tin tưởng và hợp tác hài hòa trong các giáo xứ của anh em, giữa anh em và các giám mục của anh em. Gương yêu thương không giới hạn của anh em đối với Chúa, lòng trung thành và sự tận tụy trong sứ vụ, cũng như sự dấn thân bác ái của anh em cho tất cả những người trong hoàn cảnh túng thiếu, góp phần to lớn vào công trình hòa giải và hòa bình trên đất nước này.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hãy trở lại với Người và vâng nghe Lời Người, cam kết thiết lập trên trái đất một nền hòa bình và một sự phồn vinh to lớn hơn tất cả những gì tổ tiên chúng ta đã biết. Ước mong các môn đệ Chúa Kitô tại Hàn Quốc có thể chuẩn bị cho bình minh của ngày mới này, nơi giải đất của bình minh yên tịnh này sẽ được hưởng những chúc lành phong phú của hài hòa và hòa bình ! Amen
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(18 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-pardon-porte-de-la-reconciliation

 

Đức Giáo Hoàng rửa tội cho người cha của một nạn nhân đắm tầu Sewol
Người tân tòng lấy tên thánh là Phanxicô

 

Rôma – 17/8/2014 (Zenit.org)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rửa tội người Hàn Quốc mang tên Lee Ho-jin - là cha của một trong những người trẻ đã chết trong vụ đắm tầu Sewol – sáng nay, 17/8/2014, trong nhà nguyện của tòa khâm sứ ở Seoul, lúc 7 giờ sáng. Một cử chỉ, từ đầu không được dự trù trong thời biểu của Đức Giáo Hoàng tại Hàn Quốc, nhưng nó nhấn mạnh đến "sức sống của đức tin" trong một đất nước mà Giáo Hội Công Giáo ăn mừng 100.000 người rửa tội mỗi năm.
Thảm kịch Sewol, chiếc phà đã chuyên chở 450 hành khách, trong đó có 325 học sinh của Asan, ở phía Nam Seoul, đã làm cho hơn 300 người chết, hôm 16/4/2014 vừa qua. Từ lúc đầu của chuyến tông du Hàn Quốc (13-18/8), Đức Giáo Hoàng đã cho thấy nhiều dấu chỉ muốn nâng đỡ các gia đình đang yêu cầu là tất cả sự thật về thảm kịch này phải được công bố.
Lễ Rửa Tội của ông Lee Ho-jin đã diễn ra "trong sự đơn sơ", không được dự trù trong chương trình của Đức Giáo Hoàng : chính người dự tòng, đã được chuẩn bị từ hai năm qua, và đã tự động xin được ngài rửa tội cho mình tại sân vận động ở Daejeon, hôm 15/8/2014 vừa qua.
"Trước khi vào sân vận động Daejeon và mặc áo lễ để cử hành Thánh Lễ Đức Mẹ Lên Trời, Đức Giáo Hoàng đã gặp trong nhà mặc áo một phái đoàn nhỏ 10 người trong những phụ huynh các nạn nhân hay những người sống sót của vụ đắm tầu. Đây là một khoảnh khắc cảm động sâu đậm", cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh phúc trình lại.
"Sau cùng, một người đàn ông tới gần và đã hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài có thể đích thân rửa tội cho ông không. Yêu cầu này đã là một ngạc nhiên, nhưng đã có lý do chính đáng, và vì thế nó đã được Đức Giáo Hoàng chấp thuận sau khi hỏi ý kiến Đức Cha Lazzaro, giám mục giáo phận Daejeon", ngài giải thích.
Ngài nhấn mạnh ý nghĩa của cử chỉ này : "Đức Giáo Hoàng rửa tội trong một đất nước nơi Giáo Hội Công Giáo mừng 100.000 nguời rửa tôi mỗi năm. Sự kiện ngài tham gia tác vụ này là một điều gì rất đẹp, nói lên sức sống của đức tin trong vùng này".
Ngoài ra, "thật là đẹp vì điều này có thể thực hiện cho một người đã trải nghiệm một sự đau buồn to lớn. Điều này biểu lộ sự tăng trưởng trong đức tin, câu trả lời thiêng liêng mà người ta cần có khi người ta phải đối đầu với những vấn đề căn bản nhất của sự sống và cái chết".
Theo thông cáo của Tòa Thánh thi trong buổi lễ Rửa Tội này, ông Lee Ho-jin đã tới cùng một cậu con trai và một cô con gái của ông và vị linh mục đã giới thiệu ông với Đức Giáo Hoàng ở Daejeon. Người đỡ đầu của ông là một tín hữu giáo dân làm việc tại tòa khâm sứ.
Chính Cha Gioan Cong Che-chon, sj, thông dịch viên của Đức Giáo Hoàng trong chuyến tông du là người đã đọc những lời trong lễ nghi bằng tiếng Hàn Quốc. Nhưng về các động tác của phép bí tích thì Đức Giáo Hoàng đã đích thân đổ nước và xức dầu thánh cho người tân tòng, ông đã chọn tên thánh là Phanxicô.
"Đức Giáo Hoàng đã sung sướng có thể tham gia như thế vào tác vụ trọng đại là ban Phép Rửa người lớn trong Giáo Hội Hàn Quốc", bản thông cáo viết.
Báo chí, truyền thông Hàn Quốc ghi nhận rằng Đức Giáo Hoàng tiếp tục mang chiếc giải lụa vàng, biểu tượng liên đới với các nạn nhân Sewol, trên chiếc áo dòng trắng của ngài và cả trên các áo lễ trong các cuôc cử hành lễ nghi phụng vụ.
Cuối Thánh Lễ Đức Mẹ Lên Trời, tron giờ Kinh Truyền Tin, ngài đã cầu nguyện "cho những người đã bỏ mình trong vụ đắm tầu Sewol, cũng như những người còn đang tiếp tục bị đả kích bởi tai họa quốc gia to lớn này" và mời gọi "hãy cùng nhau hành động trong tinh thần liên đới cho công ích".
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(17 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-pape-baptise-le-pere-d-une-victime-du-naufrage-du-sewol

 

"Hỡi các bạn trẻ, các bạn là hiện tại của Giáo Hội ! Hãy thức dậy !"
Bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Á Châu Kỳ VI - Hàn Quốc 

Rôma – 17/8/2014 (Zenit.org)
Các bạn là hiện tại của Giáo Hội ! Hãy thức dậy đi !", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã hô lên trong những tiếng vỗ tay nồng nhiệt của giới trẻ Á Châu, và ngài đã giao cho họ một nhiệm vụ : "dùng những năm tháng này để xây dựng một Giáo Hội thánh thiện hơn, thừa sai hơn và khiêm nhường - một Giáo Hội yêu mến và thờ lậy Thiên Chúa và tìm cách phục vụ người nghèo, người bị bỏ rơi, người yếu đuối và người bị gạt ra ngoài vòng xã hội".
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ Á Châu Kỳ VI, tại Lâu Đài Haemi, ở phía Đông-Nam Seoul, vào ngày thứ tư chuyến tông du Hàn Quốc của ngài, hôm 17/8/2014 vào lúc 16giờ30, giờ địa phương.
Được mệnh danh là "Giới trẻ Á Châu, hãy đứng lên ! Vinh quang các thánh tử đạo chiếu sáng trên bạn !", biến cố này đã quy tụ khoảng 6.000 người trẻ của 23 quốc gia Á Châu. Đức Giáo Hoàng đã gặp gỡ họ lần đầu tại Solmoe, hôm 15/8 vừa qua.
Dưới cơn mưa tầm tã, trong Thánh Lễ, ngài đã mời gọi họ hãy làm thăng hoa các đức tính tự nhiên của họ : "Mong rằng Đức Kitô biến đổi tính lạc quan tự nhiên của các bạn thành niềm hy vọng Kitô giáo, nghị lực của các bạn thành nhân đức luân lý, thiện chí của các bạn thành tình yêu vô vị lợi đích thực. Đó là con đường để vượt thắng tất cả những gì, trong cuôc đời và trong văn hóa của các bạn, đe dọa hy vọng, nhân đức và tình yêu. Làm cách đó, tuổi trẻ của các bạn sẽ là một sự cống hiến dâng lên Chúa Giêsu và cho thế giới".
Với tư cách là "con cái của châu lục rộng lớn này", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến bổn phận của họ là phải tham gia vào đời sống xã hội của các bạn. "Các bạn đừng sợ mang sự khôn ngoan của đức tin vào trong mỗi lãnh vực của đời sống xã hội !".
Với tư cách là Kitô hữu, giới trẻ Á châu được kêu gọi phải "ưa thích những giá trị tích cực" của các nền văn hóa của mình, nhưng cũng phải "phân biệt cái gì là không thích hợp với đức tin Công Giáo, các khía cạnh bị tội lỗi ghi dấu, bị hư hỏng, dẫn đưa đến sự chết".
Là "tương lai" nhưng cũng là "hiên tại của Giáo Hội", giới trẻ được mời gọi không được "xô đuổi người khách lạ, người túng thiếu, người nghèo khổ và những người trong cơn khốn quẫn" mà phải "đáp trả mỗi cầu xin giúp đỡ với tình yêu thương và lòng trắc ẩn".
Để làm được như vậy, Đức Giáo Hoàng khuyên "hãy cảnh giác, đừng chịu thua cho những áp lực, những cám dỗ và cho tội lỗi, của chúng ta hay của kẻ khác, vốn làm nhụt đi tính nhạy cảm của chúng ta trước cái đẹp và sự thánh thiện, trước niềm vui của Tin Mừng"
A.K.
Bài huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Các bạn thân mến,
Vinh quang các thánh tử đạo chiếu sáng trên các bạn ! Những lời này - một phần của chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Á Châu Kỳ VI – an ủi chúng ta và làm cho tất cả chúng ta thêm mạnh mẽ. Hỡi các bạn trẻ Á Châu : các bạn là những người thừa kế một sự làm chứng lớn lao, một sự làm chứng quý giá cho Đức Kitô. Người là ánh sáng thế gian; Người là ánh sáng của cuộc đời chúng ta ! Các thánh tử đạo của Hàn Quốc – và rất đông các vị khác trên khắp Châu Á – đã trao thân xác mình cho những kẻ bách hại; cho chúng ta, họ đã cống hiến một chứng tác bất hủ vì ánh sáng chân lý của Đức Kitô xua tan mọi bóng tối, và tình yêu của Đức Kitô vinh quang chiến thắng. Với sự tin chắc vào chiến thắng trên sự chết và sự tham gia của chúng ta vào chiến thắng đó, chúng ta có thể đương đầu với thách đố trở thành môn đệ Đức Kitô ngày hôm nay, trong những hoàn cảnh riêng của chúng ta và trong thời đại của chúng ta.
Những chữ chúng ta vừa suy ngẫm làm thành một lời an ủi. phần kia của chủ đề ngày hôm nay - Tuổi Trẻ Á Châu, hãy đứng lên ! – nói cho các bạn về một bổn phận, một trách nhiệm. Chúng ta hãy bỏ ra giây lát để xem xét mỗi một lời này.
Trước tiên là chữ "Á Châu". Các bạn đã đến từ khắp Châu Á về đây tập hợp tại Hàn Quốc. Mỗi người trong các bạn có một chỗ độc nhất và một hoàn cảnh trong đó các bạn được kêu gọi hãy phản ánh tình yêu của Thiên Chúa. Châu Á, được phú cho những truyền thống triết học và tôn giáo phong phú, vẫn là một lãnh vực rộng lớn để các bạn làm chứng cho Đức Kitô, "con đường, sự thật và sự sống" (Ga 14, 6). Như là những người trẻ không chỉ ở Châu Á, mà còn như là con cái của châu lục rộng lớn này, các bạn có quyền và có nghĩa vụ tham gia vào đời sống những xã hội của các bạn. Các bạn đừng sợ phải mang sự khôn ngoan của đức tin vào trong mỗi lãnh vực của đời sống xã hội.
Như là người Á Châu, các bạn nhìn thấy và các bạn yêu thích, từ nội tâm, tất cả những gì là tốt đẹp, cao quý và đích thực trong các nền văn hóa và các truyền thống của các bạn. Đồng thời, như là Kitô hữu, các bạn cũng biết rằng Tin Mừng có khả năng thanh tẩy, nâng cao và hoàn thiện gia tài đó. Qua sự hiện diện của Chúa Thánh Linh đã được ban cho các bạn lúc Rửa Tội và đóng dấu trên các bạn lúc Thêm Sức, hiệp nhất với các mục tử của các bạn, các bạn có thể càng ưa thích nhiều giá trị tích cực của các nền văn hóa khác nhau ở Châu Á. Các bạn cũng có khả năng phân biệt cái gì là không phù hợp với đức tin Công Giáo của các bạn, cái gì là trái với đời sống ơn phúc được tháp ghép nơi các bạn bởi Phép Rửa, và những khía cạnh nào của nền văn hóa đương đại đã bị đánh dấu bởi tội lỗi, đã bị hư hỏng và dẫn đến sự chết.
Trở lại chủ để của ngày này, chúng ta hãy suy nghĩ về chữ thứ nhì là "Giới Trẻ". Các bạn và bằng hữu của các bạn, tràn đầy lạc quan, nghị lực và thiện chí, là những đặc tính của giai đoạn này của cuộc đời. Cầu mong Đức Kitô biến đổi tính lạc quan tự nhiên của các bạn thành niềm hy vọng Kitô giáo, nghị lực của các bạn thành đức tính luân lý, ý chí của các bạn thành tình yêu bất vụ lợi đích thực. Đó là con đường mà các bạn được kêu gọi phải đi. Đó là con đường để chiến thắng tất cả những gì, trong cuộc đời của các bạn và trong nền văn hóa của các bạn, đang đe dọa niềm hy vọng, đức tính và tình yêu. Làm cách đó, tuổi trẻ của các bạn sẽ là một sự cống hiến dâng lên cho Chúa Giêsu và cho thế giới.
Như những Kitô hữu trẻ, dù các bạn là công nhân hay sinh viên, dù các bạn đã bắt đầu cuộc đời nghề nghiệp hay dù các bạn đã đáp trả ơn gọi lập gia đình, ơn gọi tu trì hay ơn gọi linh mục, các bạn không chỉ là một thành phần của tương lai của Giáo Hội; các bạn cũng là một thành phần cần thiết và được yêu mến trong hiện tại của Giáo Hội ! Các bạn là hiện tại của Giáo Hội ! Các bạn hãy lại gần với nhau, các bạn hãy luôn tới gần Thiên Chúa và với các giám mục và các linh mục của các bạn, hãy dùng những năm tháng này để xây dựng một Giáo Hội thánh thiện hơn, thừa sai hơn và khiêm nhường - một Giáo Hội yêu mến và thờ lậy Thiên Chúa và tìm cách phục vụ người nghèo, người bị bỏ rơi, người yếu đuối và người bị gạt ra ngoài vòng xã hội.
Trong đời sống Kitô hữu của các bạn, sẽ có rất nhiều dịp để các bạn bị cám dỗ, cũng như các môn đệ trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, xô đuổi người khách lạ, người túng thiếu, người nghèo khổ và những người trong cơn khốn quẫn. Chính đặc biệt là những người này đã nhắc lại lời kêu cứu của người đàn bà trong Phúc Âm : "Lậy Chúa, xin Người cứu giúp con !". Lời cầu xin của người phụ nữ Canaan là tiếng kêu của những ai đi tìm yêu thương, tìm tiếp nhận và tìm tình bạn với Đức Kitô. Đó là tiếng kêu của biết bao người trong những thành phố vô danh của chúng ta, tiếng kêu của biết bao người trẻ cùng trang lứa với các bạn và tiếng kêu của tất cả những người tử vì đạo, ngay ngày hôm nay còn chịu đựng bách hại và cái chết vì thánh danh Chúa Giêsu : "Lậy Chúa, xin Người cứu giúp con !" Chúng ta hãy đáp lại, không phải theo kiểu của những kẻ xô đuổi những người đến cầu xin chúng ta, làm như phục vụ người túng thiếu là làm trở ngại sự gần gũi của chúng ta với Chúa. Không ! Chúng ta phải như Chúa Kitô, đáp trả mỗi khi có sự cầu xin giúp đỡ với tình yêu, thương và trắc ẩn.
Sau cùng, phần thứ ba của chủ đề hôm nay – "Hãy thức dậy !" – nói về một trách nhiệm mà chúa trao cho các bạn. Đó là bổn phận phải cảnh giác, đừng để thua cho những sức ép, những cám dỗ và tội lỗi, của chúng ta và của người khác, sẽ làm nhụt đi tính nhạy cảm với cái đẹp, cái thánh thiện và niềm vui của Tin Mừng. Khi nằm ngủ, không ai có thể ca hát, nhẩy múa hay vui vẻ được. Không mấy tốt khi thấy một người trẻ nói "tôi đi ngủ đây… Không ! Hãy thức dậy ! Các bạn trẻ thân mến, "Chúa Trời, Chúa chúng ta đã ban phúc lộc" (Tv 67, 7); từ Người, chúng ta đã "được thương xót" (Rm 11, 30). Đoan chắc có được tình yêu Thiên Chúa, các bạn hãy ra đi trên thé giới làm sao cho "sau khi được thương xót", họ - gồm bằng hữu , đồng nghiệp, hàng xóm, đồng bào của các bạn và mọi người của châu lục rộng lớn này – "có thể nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa ngay bây giờ" (x. Rm 11, 31). Chính nhờ lòng thương xót của Người mà chúng ta được cứu độ.
Các bạn trẻ thân mến của Châu Á, tôi tin rằng hiệp nhất với Đức Kitô và Giáo Hội, các bạn sẽ đi trên con đường này, chắc chắn sẽ mang đến cho các bạn rất nhiều niềm vui. Bây giờ, trong lúc chúng ta bước tới bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta hãy hướng về Đức Mẹ Maria của chúng ta, Mẹ đã ban Chúa Giêsu cho thế gian. Vâng, lậy Đức Maria, Mẹ chúng con, chúng con muốn đón nhận Chúa Giêsu; trong tình âu yếm từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ giúp đỡ chúng con đưa Chúa đến cho người khác, trung thành phục vụ Người, và tôn thờ Người mọi nơi, mọi lúc, trên đất nước này và trên toàn Châu Á. Amen
Tuổi Trẻ Á Châu, hãy thức dậy !
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(17 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/jeunes-vous-etes-le-present-de-l-eglise-reveillez-vous

 

"Có một điều gì đáng để chúng ta có thể sẵn sàng chịu chết vì nó không ?"
"Lời khiêu khích" của 124 tân chân phước tử đạo của Hàn Quốc 

Rôma – 16/8/2014 (Zenit.org
Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta hãy đặt Đức Kitô lên trên tất cả, và hãy xem mọi sự còn lại trên thế gian này có quan hệ với Người và với Vương Quốc đời đời của Người. Các đấng khiêu khích chúng ta hãy đặt câu hỏi xem có gì đáng để chúng ta chịu chết vì nó không", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố trong lễ tuyên phong chân phước cho 124 vị tử đạo của Hàn Quốc, ngày 16/8/2014 này.
Vào ngày thứ ba chuyến tông du tới Hàn Quốc của ngài, Đức Giáo Hoàng đã chủ tế Thánh Lễ tuyên phong chân phước cho ông Phaolô Yun Ji-chung và 123 bạn đường của ngài - đại đa số là giáo dân – đã tử vì đạo, tại Cửa Gwanghwamun của Seoul, với sự hiện diện của 800.000 người, vào lúc 10 giờ sáng nay (tức 3 giờ, giờ Rôma).
Trong bài huấn đức của ngài, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra tấm gương của các thánh tử đạo, đặc biệt khi đức tin Kitô giáo "bị thử thách trên thế gian", những "thỏa hiệp" của "tinh thần thời đại" : "Các đấng đã sẵn sàng chịu đựng những hy sinh lớn lao và lột bỏ tất cả những gì có thể làm họ xa cách Đức Kitô : của cải thế gian, uy tín, danh vọng, bởi vì các đấng biết rằng chỉ có Đức Kitô mới là kho báu đích thực của các đấng".
"Gương sáng của các đấng có nhiều điều nói với chúng ta, là những người đang sống trong những xã hội nơi mà, nên cạnh những gia sản kếch sù, đang lặng lẽ lớn dần lên sự nghèo nàn ti tiện nhất; nơi mà tiếng kêu của những người nghèo khổ ít khi được nghe thấy; và nơi mà Đức Kitô tiếp tục kêu gọi, yêu cầu chúng ta yêu mến Người và phục vụ Người bằng cách dơ tay ra với các anh chị em của chúng ta đang cơn túng thiếu", ngài nói tiếp.
Gia tài của các vị tử đạo là một thần cảm không những chỉ cho các tín hữu mà còn "đối với tất cả những con người nam, nữ có thiện chí" đang hành động "cho một xã hội công bằng hơn, tự do và hòa giải", trên toàn thế giới, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
A.K.
Bài huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
"Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ?" (Rm 8, 35). Bằng những lời lẽ này, Thánh Phaolô nói với chúng ta về vinh quang của đức tin chúng ta nơi Chúa Giêsu : không những Đức Kitô đã sống lại tự kẻ chết và đã lên Trời, mà Người còn đã hiệp nhất chúng ta với Người, khiến chúng ta trở thành những người tham gia vào đời sống vĩnh cửu của Người. Đức Kitô vinh thắng và chiến thắng của Người là chiến thắng của chúng ta !
Hôm nay, chúng ta cử hành chiến thắng này nơi ông Phaolô Yun Ji-chung và nơi 123 bạn đồng hành của ngài. Tên tuổi các ngài cộng với tên tuổi của các hiển thánh tử đạo Anrê Kim Tae-gon, Phaolô Chong Ha-sang và các bạn của các ngài, mà tôi vừa ca tụng. Tất cả các ngài đã sống và đã chết cho Đức Kitô và bây giờ các ngài ngự trị với Người trong niềm vui và vinh quang. Với Thánh Phaolô, các ngài nói với chúng ta, trong cái chết và sự sống lại của Con Người, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chiến thắng to lớn hơn mọi chiến thắng. Quả vậy, "cho dù là sự chết hay sự sống,… trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta" (Rm 8, 38-39).
Lễ cử hành tôn vinh chân phước Phaolô và các bạn đồng hành với ngài cho chúng ta cơ hội được trở về với những lúc ban đầu, lúc bình minh của Giáo Hội ở Hàn Quốc. Nó mời gọi tất cả chúng ta ca tụng Thiên Chúa vì những gì Người đã làm. Trong sự quan phòng huyền diệu của Thiên Chúa, đức tin Kitô giáo không cập bến Hàn Quốc bởi các nhà thừa sai; đức tin đó đã du nhập bởi những con tim và trí óc của chính những người con Hàn Quốc. Nó đã được kích động bởi sự tò mò trí thức, bởi sự tìm kiếm chân lý tôn giáo.
Trong một cuộc gặp gỡ đầu tiên với Phúc Âm, những Kitô hữu Hàn Quốc tiên khởi đã mở thần trí mình ra với Chúa Giêsu. Các vị đã muốn biết nhiều hơn về Đức Kitô đã chịu khổ nạn, đã chết và đã sống lại từ kẻ chết.
Lịch sử này nói nhiều cho chúng ta về sự quan trọng, về phẩm giá và về vẻ đẹp của ơn gọi của các tín hữu giáo dân ! Giáo dân đã là những tông đồ tiên khởi của Hàn Quốc.
Phúc Âm ngày hôm nay chứa đựng một thông điệp quan trọng cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta trong chân lý và gìn giữ chúng ta khỏi thế gian. Trước hết, nó có ý nghĩa rằng, trong lúc Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta và gìn giữ chúng ta, Người không xin đưa chúng ta ra khỏi thế gian. Chúng ta biết rằng Người sai các môn đệ của Người để họ trở thành men của sự thánh thiện và của chân lý trong thế gian : muối đất, ánh sáng thế gian. Trong điều này, các thánh tử đạo chỉ đường cho chúng ta.
Một thời gian sau khi những hạt giống đức tin đầu tiên đã được gieo trồng trên mảnh đất này, các thánh tử đạo và cộng đoàn Kitô giáo đã phải chọn lựa giữa đi theo Chúa Giêsu hay chạy theo thế gian. Các ngài biết rõ cái giá phải trả khi làm môn đệ của Người. Đối với nhiều người, điều này đã có nghĩa là bách hại và, sau đó, là trốn chạy lên núi, nơi đó họ thành lập những làng Công Giáo. Họ sẵn sàng cho những hy sinh to lớn và lột bỏ tất cả những gì có thể tách họ rời xa Đức Kitô : của cải thế gian, uy tín và danh vọng, bởi vì họ biết rằng chỉ có Đức Kitô mới là kho báu đích thực của họ.
Hôm nay, rất nhiều khi, chúng ta trải nghiệm là đức tin chúng ta bị thế gian thử thách, và bằng nhiều cách, chúng ta được yêu cầu phải làm những thỏa hiêp về đức tin, phải làm mờ nhạt đi những đòi hỏi căn bản của Phúc Âm và phải phù hợp với tinh thần thời đại. Và tuy nhiên các thánh tử đạo nhắc nhở chúng ta hãy đặt Đức Kitô lên trên tất cả, và xem tất cả những gì còn lại trên thế gian này đều có liên quan với Người và với Vương Quốc vình hằng của Người. Các ngài khiêu khích chúng ta hãy đặt ra câu hỏi là có điều gì đáng để chúng ta sẵn sàng chết vì nó không ?
Hơn nữa, gương sáng của các thánh tử đạo dạy cho chúng ta điều quan trọng của lòng bác ái trong đời sống đức tin. Đó là sự trong sáng của chứng ngôn của họ cho Đức Kitô, thể hiện bởi sự chấp nhận bình đẳng về nhân phẩm của tất cả những người đã chịu Phép Rửa, và dẫn họ tới một cuộc sống huynh đệ bất chấp những cấu trúc xã hội cứng ngắc của thời điểm đó. Chính là sự từ chối của họ không chịu chia cắt giới răn về yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân đã đưa họ đến một sự ân cần to lớn đối với những nhu cầu của anh em họ. Gương sáng của họ đã nói nhiều với chúng ta, những người đang sống trong các xã hội nơi mà bên cạnh những tài sản kếch sù, đang lặng lẽ lớn dần lên sự nghèo khó ti tiện nhất; nơi mà tiếng kêu của người nghèo khó ít được nhe thấy; và nơi mà Đức Kitô tiếp tục kêu gọi, yêu cầu chúng ta hãy yêu mến Người và phục vụ Người bằng cách dơ tay ra cho anh em chúng ta đang trong cơn túng thiếu.
Nếu chúng ta noi gương các thánh tử đạo và tin vào Lời Chúa, thì chúng ta sẽ hiểu được sự tự do tuyệt vời và niềm vui khi họ ra đi gặp gỡ cái chết. Hơn nữa, chúng ta sẽ thấy là lễ mừng ngày hôm nay còn bao hàm vô số các vị tử đạo vô danh, trong đất nước này và ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt trong thế kỷ trước, đã cống hiến mạng sống mình cho Đức Kitô và đã chịu đựng những cuộc bách hại nặng nề vì thánh danh Người.
Ngày hôm nay là một ngày vui lớn cho tất cả mọi người Hàn Quốc. Gia tài của chân phước Phaolô Yun Ji-chung và các bạn ngài - sự công chính trong việc tìm kiếm chân lý, lòng trung thành của họ với những nguyên tắc lớn của tôn giáo mà họ đã lựa chọn ôm ấp, cũng như chứng ngôn của họ về bác ái và liên đới đối với tất cả mọi người - tất cả điều này làm thành lịch sử của dân dộc Hàn Quốc.
Tài sản của các thánh tử đạo có thể gây thần hứng cho tất cả mọi người nam, nữ có thiện chí để hành động hài hòa cho một xã hội công bình hơn, tự do và hòa giải, đóng góp cho hòa bình và bảo vệ những giá trị nhân bản đích thực, trong đất nước này và trên toàn thế giới.
Mong rằng các lời cầu bầu của tất cả các thánh tử đạo Hàn Quốc, hiệp nhất với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Giáo Hội, xuống cho chúng ta ơn phúc được kiên trì trong đức tin và trong tất cả những việc thiện, trong sự thánh thiện và sự trong sáng của con tim, và trong sự hăng hái tông vụ để làm chứng cho Chúa Giêsu trên đất nước thân yeu này, trong toàn Châu Á cho đến tận cùng trái đất.
Amen
Mạc Khải (ghxhcg.com phỏng dịch)
(16 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/y-a-t-il-une-chose-pour-laquelle-nous-serions-prets-a-mourir

 

 

Phúc Âm, phương thuốc trị thất vọng hiện nay
Bài huấn đức lễ Đức Mẹ Lên Trời tại Daejeon, Hàn Quốc (toàn văn)

 

Rôma – 15/8/2014 (Zenit.org
Hy vọng do Phúc Âm hiến tặng, là phương thuốc điều trị tinh thần thất vọng dường như đang gia tăng, như một thứ ung thư trong xã hội" và giới trẻ đang phải trả giá rất đắt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định hôm nay 15/8/2014.
Dành cho lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Lên Trời, vào ngày thứ hai của chuyến tông du tại Hàn Quốc, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trải nghiệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của ngài với quần chúng Hàn Quốc, trên sân vận động "World Cup Stadium" tại Daejeon, nằm cách Seoul vào khoảng 150 cây số về phía Năm.
Trong Thánh Lễ bắt đầu và khoảng lúc 10giờ 50 (03giờ50, giờ Rôma), trước 50.000 người (sức chứa tối đa của vận động trường), Đức Giáo Hoàng đã suy ngẫm về tự do Kitô giáo theo trường phái của Đức Trinh Nữ Maria : "Từ Mẹ Maria, đầy ơn phúc, chúng ta học được rằng tự do Kitô giáo là cái gì nhiều hơn là chỉ đơn giản được giải thoát khỏi tội lỗi. Chính là tự do Kitô giáo đã mở ra một phương cách thiêng liêng mới mẻ để nhận xét các thực tế trên mặt đất, tự do yêu mến Thiên Chúa cũng như các anh chị em chúng ta với một con tim trong sạch, và sống trong niềm vui hy vọng Nước Chúa Kitô trị đến".
Ngài đã cầu chúc các Kitô hữu Hàn Quốc là "một sức mạnh đại lượng để canh tân tâm hồn trong mỗi môi trường xã hội" : "Cầu cho họ chống lại sự quyến rũ của chủ nghĩa duy vật… những khuôn mẫu kinh tế phi nhân bản… cũng như nền văn hóa sự chết đang phá giá hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa của sự sống, và vi phạm phẩm giá của mỗi con người, nam, nữ, trẻ em".
Bài huấn đức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Anh chị em thân mến trong Đức Kitô,
Trong sự hiệp nhất với Hội Thánh, chúng ta cử hành lễ mừng Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời Vinh Hiển. Đức Mẹ Maria lên trời chỉ cho chúng ta thấy định mệnh của chính chúng ta với tư cách là con nuôi của Thiên Chúa và là chi phận của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Cũng như Đức Maria, Mẹ chúng ta, chúng ta được kêu gọi hãy tham gia đầy đủ vào chiến thắng của Chúa trên tội lỗi và trên sự chết, và cùng ngự trị với Người trên Vương quốc vĩnh hằng của Người.
"Điềm lớn" được trình bày trong bài đọc một - một người phụ nữ, mình khoác mặt trời và đội triều thiên tinh tú (x. Kh 12, 1) - mời gọi chúng ta hãy ngắm nhìn Đức Maria đăng quang trong vinh hiển bên cạnh Con Trai Thiên Chúa của mình. Điềm này cũng mời gọi chúng ta hãy ý thức cái tương lai mà, cả trong ngày hôm nay nữa, Chúa Phục Sinh đã mở ra trước mặt chúng ta. Theo truyền thống, người Hàn Quốc mừng lễ này dưới ánh sáng kinh nghiệm lịch sử củahọ, nhận biết lời chuyển cầu đầy yêu thương của Đức Maria cho công trình trong lịch sử của đất nước và trong đời sống của dân chúng.
Trong bài đọc hai của ngày hôm nay, chúng ta đã nghe thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Đức Kitô là một Ađam mới, mà sự vâng theo thánh ý Chúa Cha đã đưa Người vượt lên trên vương quốc của tội lỗi và nô lệ, và đã khánh thành một vương quốc của sự sống và tự do (x. 1 Cr 15, 24-25). Tự do đícch thực nằm ở trong sự đón tiếm đầy yêu thương của chúng ta đối với thánh ý Chúa Cha. Từ Mẹ Maria, đầy ơn phúc, chúng ta học được rằng tự do Kitô giáo là cái gì nhiều hơn là chỉ đơn giản được giải thoát khỏi tội lỗi. Chính là tự do Kitô giáo đã mở ra một phương cách thiêng liêng mới mẻ để nhận xét các thực tế trên mặt đất, tự do yêu mến Thiên Chúa cũng như các anh chị em chúng ta với một con tim trong sạch, và sống trong niềm vui hy vọng Nước Chúa Kitô trị đến.
Hôm nay, khi tôn kính Đức Maria, Nữ Vương Thiên Đàng, chúng ta hãy hướng lên Mẹ là Mẹ của Giáo Hội Hàn Quốc. Chúng ta cầu xin Mẹ giúp cho chúng ta trung thành với sự tự do vương giả đã nhận được trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa, hướng dẫn những nỗ lực của chúng ta để thay đổi thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa, và làm cho Giáo Hội trong đất nước này có khả năng luôn luôn là men của Vương Quốc của Người trong lòng xã hội Đại Hàn. Cầu mong các Kitô hữu của quốc gia này sẽ là một sức mạnh đại lượng để canh tân tâm hồn trong mỗi môi trường xã hội. Cầu mong họ chống lại sự quyến rũ của chủ nghĩa duy vật đang bóp nghẹt những giá trị tinh thần và văn hóa đích thực, cũng như tinh thần đua tranh vô lối phát sinh tính ích kỷ và những ranh chấp. Cầu mong họ của loại bỏ những khuôn mẫu kinh tế vô phi nhân bản vốn tạo ra những hình thức nghèo khổ mới và gạt những người lao động ra ngoài vòng xã hội, cũng như nền văn hóa sự chết đang phá giá khuôn mặt Thiên Chúa, Thiên Chúa của sự sống, và vi phạm phẩm giá của mỗi con người nam, nữ, trẻ em.
Với tư cách là những người Công Giáo Đại Hàn, thừa kế một truyền thống cao quý, anh chị em được kêu gọi hãy làm tăng giá trị cho gia tài này và để chuyển giao lại cho những thế hệ tương lai. Điều này đòi hỏi đối với mỗi người sự cần thiết phải luôn trở lại với Lời của Thiên Chúa và một sự ân cần sâu sắc đối với người nghèo, những người đang thiếu thốn và những người yếu kém giữa chúng ta. Khi mừng ngày lễ này, chúng ta hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội rải rác khắp nơi trên thế giới, chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria như Mẹ của niềm hy vọng chúng ta. Bài ca ngợi khen nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ quên những lời hứa hẹn đầy thương xót của Người (x. Lc 1, 54-55). Đức Maria là đấng tràn đầy ơn phúc bởi vì "Mẹ đã tin vào sự thực hiện của tất cả những điều đã phán với Mẹ từ Chúa" (Lc 1, 45). Nơi Mẹ, tất cả những hứa hẹn của Thiên Chúa đã được tỏ ra là chính xác.
Đăng quang trong vinh hiển, Mẹ chỉ cho chúng ta rằng niềm hy vọng của chúng ta là thật; ngay từ bây giờ, niềm hy vọng đó tỏ ra như "một cái neo chắc chắn và bền vũng của tâm hồn" (Dt 6, 19), nơi mà Đức Kitô đang ngự trong vinh quang.
Niềm hy vọng này, anh chị em thân mến, niềm hy vọng do Phúc Âm ban cho, là phương thuốc điều trị tinh thần thất vọng đang dường như gia tăng, giống như một khối ung thư trong xã hội, bề ngoài có vẻ giầu có, nhưng thường trải nghiệm nỗi buồn tẻ nội tại và sự trống vắng. Thất vọng đã bắt bao nhiêu trong những người trẻ của chúng ta phải trả giá ! Cầu mong những người trẻ đó đang ở quanh chúng ta trong những ngày này với niềm vui và tin tưởng, đừng bao giờ bị mất đi niềm hy vọng của họ !
Chúng ta hãy hướng về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, và chúng ta hãy cầu khẩn ơn được vui mừng trong tự do của con cái Thiên Chúa, được sử dụng sự tự do này với lòng khôn ngoan phục vụ các anh chị em của chúng ta, được sống và hành động như kiểu là những dấu chỉ của hy vọng, niềm hy vọng này sẽ tìm được sự viêm mãn trong Vương Quốc vĩnh hằng, nơi ngự trị tức là phục vụ.
Amen
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(15 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-evangile-antidote-au-desespoir-actuel

 

"Hỡi các bạn trẻ, Chúa tin cậy nơi các bạn !"
Ngày Giới Trẻ Á Châu VI tại thánh địa Solmoe 

Rôma – 15/8/2014 (Zenit.org)
Chúa tin cậy nơi các bạn !", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định với những người trẻ của Châu Á mà ngài đã gặp gỡ ngày 15/8/2014 này tại Hàn Quốc : "Người kêu gọi các bạn hãy đứng lên, hãy tỉnh thức và cảnh giác, và nhìn thấy những gì thật sự là quan trọng trong cuộc sống. Hơn thế nữa, Người yêu cầu các bạn hãy đi khắp các nẻo đường và những ngõ hẹp trên thế giới, gõ cửa trái tim của mọi người, mời gọi họ hãy tiếp nhận Người trong cuộc sống của họ".
Vào ngày thứ nhì chuyến tông du của ngài, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến với giới trẻ tập họp tai thánh địa Solmoe, nơi sinh trưởng của vị linh mục Đại Hàn đầu tiên, thánh Anrê Kim Tae-gon (1821-1846). Ngài đã được chào đón bởi khoảng 6.000 người trẻ trong một bầu khí lễ hội, xen lẫn tiếng ca, điệu múa Á Châu, hoạt cảnh và lời chứng.
Trong bài diễn từ bằng tiếng Anh, Đức Giáo Hoàng một lần nữa đã đả kích "tinh thần thế gian" đang gây ra một "hoang địa tinh thần" trên thế giới : "những mầm mống của ích kỷ, của thù nghịch và của bất công, bất bình đẳng gia tăng trong các xã hội giữa người giầu và người nghèo, nạn tôn thờ của cải, quyền lực và lạc thú có được với một cái giá rất cao trong cuộc sống của con người, sự nghèo nàn về tinh thần, cô đơn và âm thầm thất vọng. Thiên Chúa dường như vắng mặt khỏi tấm tranh này".
Tuy nhiên, ngài đã đẳng định "Thần Khí của Chúa Giêsu có thể mang một cuộc sống mới mẻ đến cho mỗi trái tim con người và có thể thay đổi mỗi tình hình, kể cả những tình hình bề ngoài có vẻ tuyệt vọng nhất. Lời Người có quyền phép đụng đến mỗi trái tim, chiến thắng điều ác bởi điều thiện, thay đổi và cứu chưộc thế gian".
Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi giới trẻ hãy loan truyền thông điệp hy vọng này "ở học đường, trong những nơi làm việc, trong các gia đình các bạn, ở trường đại học và trong các cộng đoàn của các bạn" : "Chúa tin cậy nơi các bạn !". Đức Giáo Hoàng cũng đã ứng khẩu một đoạn dài bằng tiếng Ý. Chúng tôi phổ biến ở đây văn bản được chuẩn bị và được ngài đọc, trong khi chờ đợi những lời lẽ ngài ứng khẩu xuất phát thẳng từ trái tim ngài.
Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Các bạn thân mến,
"Chúng con ở đây, thật là hay" (Mt 17, 4). Những lời đó đã được thánh Phêrô nói lên trên Núi Thabor trong khi ông ở trước mặt Chúa Giêsu hiển dung trong vinh quang. Quả thật là hạnh phúc mà chúng ta đang ở nơi này, cùng nhau, ngay trên thánh địa các Thánh Tử Đạo Hàn Quốc, qua đó vinh quang của Chúa đã thể hiện vào lúc bình minh của cuộc sống Giáo Hội trong đất nước này. Trong buổi họp mặt tươi đẹp này, quy tụ các Kitô hữu trẻ của toàn Châu Á, chúng ta có thể gần như cảm thấy được vinh quang của Chúa Giêsu hiện diện ở giữa chúng ta, hiện diện trong Giáo Hội của Người đang bao phủ lên mỗi quốc gia, mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc, hiện diện trong uy quyền của Chúa Thánh Linh là Đấng canh tân, làm mọi sự trở nên trẻ trung hơn và sống động hơn !
Tôi cảm ơn các bạn vì sự đón tiếp nồng hậu của các bạn - rất nồng hậu ! – và vì quà tặng là lòng hăng hái, vì các ca khúc vui tươi, các lời chứng đức tin và vì sự biểu lộ tốt đẹp của các bạn về tính đa dạng và phong phú của các nền văn hóa khác nhau của các bạn. Tôi cảm ơn đặc biệt ba bạn trẻ đã chia sẻ với tôi những hy vọng của các bạn, những vấn đề của các bạn và những lo âu của các bạn; tôi đã chăm chú lắng nghe họ và tôi sẽ giữ chúng trong ký ức của tôi. Tôi cảm ơn Đức cha Lazzaro You Heung-sik vì lời chào mừng của ngài và tôi xin gửi lời chào ngài từ đáy lòng tôi.
Chiều nay, tôi muốn cùng với các bạn suy ngâm về một khía cạnh của tiêu đề Ngày Giới Trẻ Á Châu VI này : "Vinh quang các Thánh Tử Đạo chiếu sáng trên các bạn". Cũng như Chúa đã chiếu sáng vinh quang của Người trong sự làm chứng anh hùng của các Thánh Tử Đạo, cùng thể thức ấy, Người muốn chiếu sáng vinh quang của Người trong đời sống của các bạn, qua các bạn, soi sáng đời sống của châu lục rộng lớn này. Hôm nay, Chúa Kitô gõ cửa trái tim các bạn. Người kêu gọi các bạn hãy đứng lên, hãy tỉnh thức và cảnh giác, và nhìn thấy những gì là thực sự quan trong trong cuộc đời. Hơn thế nữa, Người yêu cầu các bạn hãy đi khắp các nẻo đường và những ngõ hẹp trên thế giới, gõ cửa trái tim của mọi người, mời gọi họ hãy tiếp nhận Người trong cuộc sống của họ.
Cuộc đại hội giới trẻ Á Châu này cho chúng ta thấy một điều là chính Giáo Hội cũng được kêu gọi nằm trong dự án đời đời của Thiên Chúa. Cùng nhau, với giới trẻ ở khắp nơi, các bạn muốn giúp đỡ xây dựng một thế giới nơi chúng ta sẽ được cùng nhau sinh sống trong hòa bình và trong tình bằng hữu, vượt qua mọi rào cản, hàn gắn mọi chia rẽ, từ bỏ bạo lực và định kiến. Đó chính xác là điều Thiên Chúa muốn cho các bạn. Giáo Hội được kêu gọi hãy là hạt giống của hiệp nhất cho toàn thể gia đình nhân loại. Trong Đức Kitô, tất cả mọi quốc gia và tất cả các dân tộc được kêu gọi hiệp nhất mà không phá đi tính đa nguyên, nhưng công nhận nó, hòa giải nó và làm cho nó phong phú.
Tinh thần thế gian có vẻ xa cách rất nhiều với mục đích tuyệt vời của dự án này ! Đã bao lần những hạt giống của điều thiện và hy vọng mà chúng ta tìm cách gieo xuống đất dường như đã bị bóp nghẹt bởi những mầm mống của ích kỷ, của thù nghịch và của bất công, không những chung quanh chúng ta, mà còn cả trong lòng chúng ta nữa. Chúng ta bận tâm bởi sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng trong các xã hội chúng ta giữa người giầu và người nghèo. Chúng ta thấy những dấu hiệu của một sự tôn thờ thần tượng của cải, quyền lực và lạc thú có được với một cái giá rất cao trong cuộc sống con người. Gần bên chúng ta, có bao bạn bè chúng ta và người đương thời, dù rằng họ sống trong một thế giới rất sung túc về vật chất, nhưng họ vẫn bị nghèo nàn về tinh thần, bị cô đơn và lặng lẽ thất vọng. Thiên Chúa dường như vắng mặt trong bức tranh đó. Đây gần như là một sa mạc tinh thần bắt đầu lan rộng ra trên thế giới của chúng ta. Điều này cũng gây tổn thương đến giới trẻ, lấy mất của họ niềm hy vọng và, trong quá nhiều trường hợp, luôn cả mạng sống của họ nữa.
Tuy vậy, chính trong thế giới này mà các bạn được kêu gọi làm chứng cho Phúc Âm của hy vọng, Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, và cho lời hứa về Vương Quốc của Người. Trong các dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy rằng Vương Quốc khiêm tốn ngự đến trên thế gian, im lặng phát triển, và tuy thế rất chắc chắc, mỗi lần nước Chúa được đón nhận bởi những con tim mở ra với thông điệp hy vọng và cứu độ của nó. Phúc Âm dạy cho chúng ta rằng Thần Khí của Chúa Giêsu có thể mang lại một sự sống mới cho mỗi tâm hồn con người và có thể thay đổi mỗi tình hình, dù rằng bề ngoài có vẻ tuyệt vọng nhất. Đó là thông điệp mà các bạn được mời gọi chia sẻ với những người trẻ cùng trang lứa với các bạn : ở học đường, trong nơi làm việc, trong gia đình, trong trường đại học và trong các cộng đoàn của các bạn. Bởi vì Chúa Giêsu đã sống lại từ kẻ chết, chúng ta biết rằng Người có "những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6, 68), rằng lời Người có quyền phép đánh động lòng người, chiến thắng điều ác bằng điều thiện, thay đổi và cứu chuộc thế gian.
Các bạn trẻ thân mến, trong thời đại chúng ta, Chúa tin cậy nơi các bạn ! Chúa tin cậy nơi các bạn ! Người đã đi vào tâm hồn các bạn trong ngày các bạn chịu Phép Rửa; Người đã ban Thần Khí của Người trong ngày các bạn chịu Phép Thêm Sức; và Người luôn luôn tăng cường cho các bạn bởi sự hiện diện của Người trong bí tích Thánh Thể, khiến cho các bạn có thể là những chứng nhân của Người trước mặt thế gian. Các bạn có sẵn sàng đáp lại với Người là "Xin Vâng" không ? Các bạn có sẵn sàng không ? [Có !]. Cảm ơn… Các bạn có mệt không ? [Không !]…[Đức Giáo Hoàng loan báo là ngài sẽ ứng khẩu, nhưng bằng tiếng Ý "vì Tiếng Anh của tôi nghèo nàn lắm"…].
[Tiếp nối bằng tiếng Anh] Tôi phải đề nghị với các bạn ba gợi ý, nhưng tôi cũng đã nói về tất cả những điều này : Cầu Nguyện, Thánh Thể, Lời Chúa.
Đã tới lúc tôi phải rời các bạn. Tôi rất sung sướng gặp lại các bạn trong những ngày này và nói chuyện lại với các bạn khi chúng ta tập họp trở lại trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật. Bây giờ, chúng ta hãy cảm ơn Chúa đã chúc lành cho thời gian chúng ta ở chung với nhau và chúng ta hãy cầu xin Người sức mạnh để là những chứng nhân trung thành và vui vẻ của tình yêu Người trên khắp Châu Á và trên toàn thế giới.
Cầu xin Đức Maria, Mẹ chúng ta, đoái nhìn các bạn và gìn giữ các bạn gần với Chúa Giêsu, Con Mẹ. Và cầu xin, từ trên trời, Thánh Gioan Phaolô II, là đấng đã khởi xướng Ngày Giới Trẻ Thế Giới, đồng hành luôn mãi với các ban. Với tấm lòng yêu mến, tôi ban phép lành của tôi cho các bạn.
[Phép lành]
Và xin các bạn làm ơn, hãy cầu nguyện cho tôi, đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(15 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/jeunes-le-seigneur-compte-sur-vous

 

Các Mối Phúc Thật, con đường hạnh phúc
Bài giáo lý ngày 06 tháng 8 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 12/8/2014 (Zenit.org)"Các Mối Phúc Thật là con đường Thiên Chúa chỉ ra như là câu trả lời cho ước vọng hạnh phúc in sâu trong con người", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định và mời gọi các Kitô hữu "hãy nhớ lấy và ghi khắc trong lòng mình".
Sau kỳ nghỉ hè, các buổi triều kiến chung đã lại tiếp tục hôm thứ tư 06/8/2014 vừa qua, trong sảnh đường Phaolô VI của điện Vatican. Đức Giáo Hoàng đã tiếp nối loạt bài giáo lý dành nói về Giáo Hội trên chủ đề "Giao Ước Mới và dân tộc mới".
Theo Đức Giáo Hoàng, "tất cả sự mới mẻ của Chúa Kitô" chứa đựng trong các Mối Phúc Thật, vốn là "dung nhan Chúa Giêsu, hình thức sống của Người; và là con đường hạnh phúc".
Nhưng các Mối Phúc này có một hệ quả, mà Đức Giáo Hoàng khuyên phải suy ngẫm "hàng ngày" : "chương 25 Phúc Âm theo thánh Mátthêu, nơi người ta tìm được trình tự và những câu hỏi sẽ được đặt ra trong ngày phán xét… Chúa sẽ chỉ nhận ra chúng ta nếu, về phần chúng ta, chúng ta nhận ra được Người trong người nghèo khó, người đói khát, người bần cùng và bị thải loại ra ngoài lề xã hội, người đau khổ và cô đơn…"
Với "những tiêu chuẩn cơ bản này để xác minh đời sống Kitô giáo", Đức Giáo Hoàng khuyến khích hãy "làm chứng cho cái đẹp và cái khả tín của tình yêu Thiên Chúa đối với các anh em mình gặp gỡ hàng ngày".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Giáo Hội 3 Giao Ước mới và dân tộc mới
Thân chào quý ah chị em !
Trong các bài giáo lý trước, chúng ta đã thấy Giáo Hội là một dân tộc, một dân tộc được Thiên Chúa kiên nhẫn chuẩn bị với lòng yêu thương và chúng ta được mời gọi trở nên thành phần của dân tộc ấy. Hôm nay, tôi muốn làm rõ tính mới mẻ vốn là đặc tính của dân tộc này : đúng là một dân tộc mới, được đặt nền móng trên giao ước mới được Chúa Giêsu thiết lập  qua việc hiến ban mạng sống của Người. Sự mới mẻ này không chối bỏ con đường trước đây, cũng không chống con đường đó : trái lại, nó làm cho con đường đó tiến tới, dẫn đưa tới chỗ viên mãn.
1. Có một hình ảnh rất quan trong có thể làm bản lề giữa Cựu và Tân Ước : đó là hình ảnh  Gioan Baotixita. Theo các cuốn Phúc Âm khái quát, ngài là "người tiên phong", người chuẩn bị cho Chúa ngự đến, mở đường cho dân chúng hối cải tâm hồn và đón nhận sự an ủi của Thiên Chúa, nay đã đến gần. Trong Phúc Âm thánh Gioan, ngài là "chứng nhân", do ngài làm cho chúng ta nhận biết Chúa Giêsu, Đấng đến từ cõi trên, để tha thứ tội lỗi chúng ta và biến dân tộc của Người thành hiền thê của Người, tiền đề của tân nhân loại. Với tư cách là "tiên phong" hay "chứng nhân", thánh Gioan Baotixita thủ vai trò trung tâm của toàn bộ Thánh Kinh, trong tầm vóc mà ngài làm nhịp cầu giữa lời hứa của Cựu Ước và sự viên mãn của nó, giữa những lời tiên tri và sự thể hiện của chúng nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhờ sự làm chứng, thánh Gioan chỉ cho chúng ta Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta hãy theo chân Người và nói rõ ràng với chúng ta rằng điều này đòi hỏi lòng khiêm nhường, lòng xám hối và trở lại : đó là lời mời gọi khiêm nhường, hối cải và trở lại.
2 Cũng như ông Mô-sê đã chỉ rõ giao ước với Thiên Chúa vì giới luật đã nhận lãnh trên núi Sinai, Chúa Giêsu, từ trên đồi bên bờ hồ Galilêa, đã ban cho các môn đệ và dân chúng một giáo huấn mới, bắt đầu bằng các Mối Phúc Thật. Ông Mô-sê ban Giới Răn trên núi Sinai và Chúa Giêsu, Mô-sê mới, ban Lề Luật trên ngọn núi khác, bên bờ hồ Galilêa. Các Mối Phúc Thật là con đường mà Thiên Chúa chỉ ra, như câu trả lời cho những ước vọng hạnh phúc được ghi khắc trong con người và cải thiện các giới răn của giao ước cũ. Chúng ta quen học 10 Điều Răn – đương nhiên, tất cà anh chị em đều thuộc lòng, anh chị em đã học trong sách giáo lý – nhưng chúng ta không quen nhắc lại các Mối Phúc Thật. Nào, chúng ta hãy thử nhớ lại và ghi khắc trong lòng chúng ta. Chúng ta hãy làm như thế này : tôi đọc trước từng câu một và tất cả anh chị em cùng nhắc lại, đồng ý không ?
Thứ nhất : "Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ". [hội trường nhắc lại]
"Phúc thay ai than khóc, vì sẽ được an ủi".  [hội trường nhắc lại]
"Phúc thay ai hiền lành, vì sẽ hưởng đất hứa làm gia nghiệp". [hội trường nhắc lại]
"Phúc thay ai đói khát sự công chính, vì sẽ được no đủ.". [hội trường nhắc lại]
"Phúc cho ai hay thương xót, vì sẽ được xót thương". [hội trường nhắc lại]
"Phúc cho ai có lòng trong sạch, vì sẽ được gặp Thiên Chúa". [hội trường nhắc lại]
"Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. [hội trường nhắc lại]
"Phúc cho những ai bị bách hại vì sự công chính, vì nước thiên đàng thuộc về họ". [hội trường nhắc lại]
"Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa". Để tôi giúp các anh chị em nhé : [ngài cùng nhắc lại với hội trường]  "Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa".
"Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao !"
Hoan hô ! Nhưng chúng ta hãy làm điều này : tôi cho anh chị em một bài làm mang về nhà, một bài tập ở nhà. Anh chị em hãy lấy sách Phúc Âm, cuốn mà các anh chị em có bên mình đó… Xin anh chị em hãy nhớ là anh chị em phải luôn có bên mình một cuốn sách Phúc Âm nhỏ, trong túi, luôn luôn; hay cuốn mà anh chị em có ở nhà. Anh chị em hãy mở ra, trong những chương đầu của thánh Matthêu – tôi nghĩ là chương 5 – có các Mối Phúc Thật. Và hôm nay, ngày mai, ở nhà, anh chị em hãy đọc những Mối Phúc này. Anh chị em sẽ làm chứ ? [hội trường : Vâng !] Để đừng quên các Mối Phúc đó, vì đó là Lề Luật Chúa Giêsu ban cho chúng ta ! Anh chị em sẽ làm chứ ? Cảm ơn.
Những lời này chứa đựng tất cả sự mới mẻ Đức Kitô mang lại cho chúng ta, và tất cả sự mới mẻ của Đức Kitô được chứa đựng trong những lời này. Quả vậy, Các Mối Phúc là dung nhan Chúa Giêsu, là hình thể cuộc sống của Người; và là con đường hạnh phúc, mà cả chúng ta nữa, chúng ta có thể đi trên đó với ân điển Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
3. Cộng thêm với Lề Luật mới, Chúa Giêsu cũng trao lại cho chúng ta "trình tự" theo đó chúng ta sẽ bị phán xét. Vào lúc tận thế, chúng ta sẽ bị phán xét. Và chúng ta sẽ được đặt trước những câu hỏi nào ở đó ? Những câu hỏi nào ? Trình tự của vị quan tòa sẽ phán xét chúng ta như thế nào ? Đó là những gì chúng ta tìm thấy trong chương 25 của Phúc Âm thánh Mátthêu. Hôm nay, bài tập là phải đọc chương 5 của Phúc Âm theo thánh Mátthêu nơi có các Mối Phúc; và đọc chương 25, nơi có trình tự, những câu hỏi sẽ được đặt ra cho chúng ta vào ngày phán xét. Chúng ta sẽ không có tước vị, không có tín dụng cũng chẳng có ưu đãi để viện dẫn. Chúa sẽ nhận ra chúng ta nếu, về phần chúng ta, chúng ta cũng nhận ra Người trong kẻ nghèo khó, đói khát, bần cùng và bị thải loại ra ngoài lề xã hội, người đau khổ và cô đơn… Và đó là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xác minh đời sống Kitô giáo của chúng ta, và Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đo lường nó mỗi ngày. Tôi đọc các Mối Phúc Thật và tự hỏi đời sống Kitô hữu của tôi phải như thê nào, và sau đó tôi xét mình với chương 25 Phúc Âm thánh Mátthêu. Ngày nào cũng tự hỏi : tôi đã làm chuyện này, đã làm chuyện kia… Điều này ích lợi cho chúng ta! Đơn giản nhưng cụ thể.
Các bạn thân mến, Giao Ước mới thật ra là như thế này : nhận ra chính mình, trong Chúa Kitô, đưọc bao bọc bởi tình thương xót và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa. Và điều này đổ tràn đầy niềm vui trong lòng và đây chính là điều khiến cho cuộc đời chúng ta trở thành một chứng từ tươi đẹp và đáng tin cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho tất cả anh em mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Anh chị em hãy nhớ các bài tập nghe ! Chương 5 và chương 25 Phúc Âm thánh Mátthêu. Cảm ơn.
Lời Đức Giáo Hoàng sau bài giáo lý
[Chào mừng tiếng Pháp]
Chào mừng anh chị em, các bạn nói thiếng Pháp thân mến ! Trong lễ Chúa Biến Hình, cầu mong trong lòng anh chị em được tràn đầy niềm vui và ánh sáng khi nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em ! Mong rằng niềm vui và ánh sáng đó tỏa ra trong cả cuộc đời các anh chị em để trở thành những chứng nhân khả tín cho tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người mà anh chị em sẽ gặp gỡ ! Chúc những ngày tốt đẹp ở Rôma ! Xin Thiên Chúa ban phép lành cho anh chị em !
[Lời kêu gọi cho cuộc động đất ở Trung Quốc]
Tôi muốn biểu lộ sự gần gũi với dân chúng trong tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, bị trận động đất hôm chúa nhật vừa qua khiến có nhiều nạn nhân và thiệt hại to lớn. Tôi cầu nguyện cho những người chết và gia đình họ, cho những người bị thương và cho những ai đã mất cả cửa nhà. Xin Chúa ban cho họ niềm an ủi, hy vọng và liên đới trong sự thử thách này.
[Lời chào mừng bằng tiếng Ý]
Hôm nay chúng ta có một ý nghĩ đặc biệt tới Tôi Tớ đáng kính của Thiên Chúa là ĐGH Phaolô VI, nhân ngày giỗ 06/8 của ngài. Chúng ta nhắc lại ký ức của ngài với lòng thương mến và kính phục, Vì ngài đã sống và cống hiến tất cả cho việc phục vụ Giáo Hội mà ngài hết lòng yêu mến. Mong tấm gương tôi tớ trung thành với Chúa Kitô và với Phúc Âm của ngài là một khuyến khích và kích thích cho mỗi người chúng ta.
Tôi gửi một ý nghĩ tới các bạn trẻ, tới những người bệnh hoạn và những cặp tân hôn. Mong rằng lễ Chúa Biến Hình giúp đỡ tất cả anh chị em để đừng bao giớ mất đi hy vọng, mà luôn phó thác trong tay Chúa Kitô là Đấng, đã cứu chuộc chúng ta.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(12 août 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-beatitudes-route-du-bonheur

 

Điều kiện để tham gia Giáo Hội:
Tin tưởng vào Thiên Chúa

Bài giáo lý ngày 18 tháng 6 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 18/6/2014 (Zenit.org)
Giáo Hội, chính là dân mà Thiên Chúa đã hình thành "với tất cả những người nghe theo Lời Người và cất bước lên đường, tin tưởng vào Người. Đó là điều kiện duy nhất : tin tưởng vào Thiên Chúa. Nếu bạn tin tưởng vào Thiên Chúa, nếu bạn nghe lời Người và cất bước lên đường, đó chính là Giáo Hội", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Ngài cũng nhắc rằng Giáo Hội không thể thu gọn vào "các linh mục, các giám mục, hay Vatican… Những đấng bậc đó đều là thành phần của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội, chính là tất cả chúng ta, cùng một gia đình, cùng một người mẹ".
Đức Giáo Hoàng đã khởi đầu một loạt bài giáo lý mới về Giáo Hội, trong buổi triều kiến chung ngày thứ tư 18/6/2014 này trên quảng trường Thánh Phêrô.
Trong Giáo Hội, ngài nhấn mạnh, "tình tyêu thương của Thiên Chúa đí trước hết, Thiên Chúa luôn là đứng đầu… Khi chúng ta tới, Người chờ đợi chúng ta, Người kêu gọi chúng ta, Người làm cho chúng ta bước đi". Kể cả đối với "kẻ đại tội nhân", Đức Giáo Hoàng xác quyết : "Người còn chờ đợi bạn nhiều hơn nữa và Người chờ đợi bạn với nhiều yêu thương, bởi Người đứng đầu".
"Là Giáo Hội, chính là cảm thấy mình ở trong bàn tay Thiên Chúa, là Cha yêu thương chúng ta, vuốt ve chúng ta, chờ đợi chúng ta, làm cho chúng ta cảm nhận được lòng dịu hiền của Người", ngài nói tiếp, và nhắc nhở rằng từ thời ông Abraham, Thiên Chúa muốn "hình thành một dân tộc được chúc phúc bởi tình yêu thương của Người và mang lại cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất sự chúc phúc của Người".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Và tôi ngợi khen anh chị em, bởi vì anh chị em đã can đảm, với thời tiết này, không biết có mưa hay không… Hoan hô ! Chúng ta hãy hy vọng là chúng ta sẽ kết thúc buổi triều kiến không có mưa, cầu mong Chúa thương xót chúng ta !
Hôm nay, tôi khởi sự một chuỗi bài giáo lý về Giáo Hội. Cũng giống như một đứa con nói về chính bà mẹ của mình, về chính gia đình của mình. Nói về Giáo Hội, chính là nói về mẹ chúng ta, gia đình chúng ta. Quả vậy, Giáo Hội không phải một cơ chế có mục đích nhằm cho chính mình, cũng không phải là một hội đoàn tư nhân, một tổ chức phi chính phủ (NGO), và cũng cần phải hạn chế việc thu hẹp nhãn quan của mình vào những thành phần của giáo sĩ hay vào Vatican… "Giáo Hội suy nghĩ…". Nhưng Giáo Hội, là tất cả chúng ta ! "- Cha muốn nói tới ai vậy ? – Không, các linh mục…". À, các linh mục là những thành viên của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội, chính là tất cả chúng ta ! Chúng ta đừng thu hẹp Giáo Hội vào các linh mục, các giám mục, hay Vatican… Tất cả các vị đó đều thuộc Giáo Hội, nhưng Giáo Hội, chính là tất cả chúng ta, cùng một gia đình, cùng một bà mẹ. Và Giáo Hội là một thực tế rộng lớn hơn nhiều, mở ra cho toàn thể nhân loại chứ không sinh ra trong một phòng thí nghiệm, Giáo Hội không sinh ra trong một phòng thí nghiệm, Giáo Hội không bỗng dưng sinh ra. Giáo Hội được Chúa Giêsu dựng lên, nhưng chính là dân tộc với một lịch sử lâu đời sau lưng và một sự chuẩn bị vốn đã khởi sự rất lâu trước cả Đức Kitô nữa.
1. Người ta đã tìm thấy lịch sử, hay đúng hơn là "tiền sử", của Giáo Hội trong những trang của Cựu Ước. Chúng ta đã nghe trong Sách Sáng Thế : Thiên Chúa đã chọn ông Abraham, tổ phụ chúng ta trong đức tin, và đã yêu cầu ông ra đi, bỏ lại quê hương để tới một miền đất khác mà Người sẽ chỉ cho ông (x. St 12, 1-9). Và ơn gọi này, Thiên Chúa không chỉ kêu một mình cá nhân ông Abraham, mà ngay từ đầu, Người đã gắn liền gia đình, họ hàng và tất cả những người giúp việc trong nhà ông. Sau đó, khi đã lên đường, - phải, chính như thế đó mà Giáo Hội đã bắt đầu cuộc lữ hành -, Thiên Chúa sẽ mở rộng ra nữa chân trời của ông Abraham và ban đầy phép lành của Người cho ông, hứa với ông một hậu duệ đầy đàn như sao trên trời và như cát dưới biển. Sự kiện quan trọng đầu tiên chính là điều này : bắt đầu bằng ông Abraham, Thiên Chúa hình thành một sắc dân để dân này mang ơn chúc lành của Người đến cho mọi gia đình trên mặt đất. Và Chúa Giêsu đã sinh ra giữa sắc dân này. Chính Thiên Chúa đã làm nên dân này, lịch sử này, Giáo Hội lữ hành, và Chúa Giêsu sinh ra nơi đó, trong dân này.
2. Một yếu tố thứ nhì : không phải ông Abraham đã dựng lên một dân tộc, mà chính Thiên Chúa đã ban sự sống cho dân này. Thường thường thì con người hay tìm đến thần linh để lấp đầy những khoảng cách và để cầu xin sự giúp đỡ và che chở. Thiên hạ phải đi cầu thần linh. Nhưng trái lại, trong trường hợp ở đây [dân Chúa], người ta thấy một chuyền chưa từng nghe qua : chính đích thân Thiên Chúa đã khởi xướng. Chúng ta hãy nghe đây : chính đích thân Thiên Chúa đã gõ cửa nhà ông Abraham và phán với ông rằng : Người hãy ra đi, hãy rời đất này, bắt đầu cuộc lữ hành và Ta sẽ làm cho người thành một dân tộc lớn. Và đó là khởi đầu của Giáo Hội và Chúa Giêsu đã sinh ra trong dân này. Thiên Chúa chủ xướng và phán bảo con người, dựng lên một mối liên lạc và quan hệ mới với Người. "-Nhưng, thưa cha, việc đó xẩy ra như thế nào ? Thiên Chúa có phán dạy cho chúng ta không ? – Có. – Và chúng ta, chúng ta có thể thưa với Thiên Chúa được không ? - Được. – Nhưng chúng ta có thể có được một cuộc đàm thoại với Thiên Chúa không ? – Được". Cái đó gọi là cầu nguyện, nhưng chính Thiên Chúa đã dựng lên điều đó từ lúc sơ khai. Như thế Thiên Chúa đã hình thành một dân tộc với tất ca những ai nghe theo Lời Người và bước đi theo Người, tin tưởng vào Người. Đó là điều kiện duy nhất : tin tưởng vào Thiên Chúa. Nếu bạn tin tưởng vào Thiên Chúa, nếu bạn nghe theo Lời Người và bước đi trên đường lữ hành, đó là kiến tạo Giáo Hội". Tình yêu thương của Thiên Chúa đi trước mọi sự. Thiên Chúa luôn đứng đầu, Người tới trước chúng ta, người đi trước chúng ta. Tiên tri Isaia, hay Giêrêmia, tôi không nhớ rõ, đã nói rằng Thiên Chúa như một đóa hoa cây hạnh, bởi vì đó là cây đầu tiên trổ hoa vào mùa xuân. Để nói rằng Thiên Chúa luôn mãi nở hoa trước chúng ta. Khi chúng ta tới, Người chờ đón chúng ta, Người cất tiếng gọi chúng ta, Người dắt chúng ta bước đi. Người luôn mãi đi trước so với chúng ta. Và điều này gọi là tình yêu thương, bởi vì Thiên Chúa luôn mãi chờ đón chúng ta. "- Nhưng, thưa cha, con không tin điều này, vì thưa cha, nếu cha biết, cuộc đời con thật sự chẳng đẹp đẽ gì, làm sao con có thể tin được rằng Thiên Chúa chờ đón con ? - Thiên Chúa đợi con đó. Và nếu con là một kẻ đại tội lỗi, Người còn đợi con nhiều hơn nữa và Người đợi con với nhiều tình yêu thương, bởi vì Người đứng đầu. Chính điều đó, vẻ đẹp của Giáo Hội đã dẫn đưa chúng ta đến với vị Thiên Chúa đó đang đợi chờ chúng ta. Ông Abreaham đi trước chúng ta, và ông Ađam cũng đã đi trước chúng ta.
3. Ông Abraham và những người của ông đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa và đã lên đường, mặc dù họ không biết rõ Thiên Chúa này là Đấng nào và Người muốn đưa họ đi đâu. Thật vậy, bởi vì ông Abraham đã lên đường và tin tưởng vào Thiên Chúa này là Đấng đã phán bảo với ông, nhưng ông không có cuốn sách thần học để học biết Thiên Chúa này là ai. Ông tin tưởng, ông đặt niềm tin tưởng nơi tình yêu thương. Thiên Chúa đã làm cho ông cảm thấy Người và tình yêu thương của Người, ông tin tưởng.
Nhưng điều này không có nghĩa là những con người này luôn xác tín và trung thành. Trái lại, ngay từ lúc sơ khai, đã có những đề kháng, những sự thụt lùi, thu mình trên những quyền lợi riêng tư và có sự cám dỗ trả giá với Thiên Chúa và giải quyết mọi việc theo kiểu của mình. Đó là những phản bội và tội lỗi đã đánh dấu cuộc hành trình của dân chúng suốt chiều dài lịch sử cứu độ, vốn là lịch sử bất trung của dân chúng. Nhưng Thiên Chúa không hề nản lòng, Thiên Chúa có lòng kiên nhẫn, rất nhiều kiên nhẫn và, trong quá khứ, Người tìm cách giáo dục và đào tạo dân Người, như một người cha với đứa con của chính mình. Thiên Chúa đồng hành với chúng ta. Tiên tri Ôsê nói : "Ta đã bước đi với con và Ta đã dậy con bước đi như một người cha dậy cho con của mình". Một hình ảnh đẹp của Thiên Chúa ! Và đối với chúng ta cũng vậy : Người dậy chúng ta bước đi.
Và chính cũng là thái độ này mà Người đã giữ lại đối với Giáo Hội. Chúng ta cũng vậy, quả thế, mặc dù quyết tâm của chúng ta là theo chân Chúa Giêsu, mỗi ngày chúng ta đều phải trải nghiệm lòng ích kỷ và sự cứng lòng của chúng ta. Nhưng khi chúng ta thú nhận mình tội lỗi, Thiên Chúa đổ xuống cho chúng ta tràn đầy lòng thương xót và tình yêu thương của Người. Và Người tha thứ cho chúng ta, Người luôn tha thứ cho chúng ta. Và đích thực là điều làm cho chúng ta lớn mạnh lên như dân của Thiên Chúa, như Giáo Hội : không phải lòng can đảm của chúng ta, cũng không phải những công đức của chúng ta, - chúng ta chẳng là gì, không phải điều đó – nhưng đó là phải trải nghiệm hàng ngày sự kiện Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc chúng ta biết chừng nào. Chính điều đó giúp cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thật sự thuộc về Người và chúng ta đang ở trong bàn tay Người, và Người làm cho chúng ta lớn lên trong sự hiệp thông với Người và giữa chúng ta. Là Giáo Hội, chính là cảm thấy được ở trong bàn tay Thiên Chúa, Người vốn là người cha và Người yêu thương chúng ta, vuốt ve chúng ta, đợi chờ chúng ta, làm cho chúng ta cảm nhận được lòng từ bi của Người. Và điều này, thật là quá đẹp !
Các bạn thân mến, đó là dự án của Thiên Chúa : khi Người gọi Abraham, Thiên Chúa đã nghĩ tới điều này : hình thành một dân tộc được tình yêu thương của Người chúc phúc để mang sự chúc phúc của Người đến cho tất cả mọi dân tộc trên mặt đất. Dự án này không thay đổi, nó luôn đang được tiến hành. Nó đã được hoàn tất trong Đức Kitô và, hôm nay nữa, Thiên Chúa tiếp tục thực hiện nó trong Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu xin ơn được trung thành đi theo bước chân Chúa Giêsu và nghe theo Lời Người, sẵn sàng ra đi mỗi ngày, như ông Abraham, đến đất của Thiên Chúa và của con người, quê hương đích thực của chúng ta, trở thành một sự chúc lành, một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả các con cái của Người. Tôi muốn nghĩ rằng một từ đồng nghĩa, một cái tên khác mà chúng ta có thể có, chúng ta, các Kitô hữu, là từ này : chúng ta là những người nam, nữ đi chúc lành. Người Kitô hữu, bằng đời sống của mình, luôn phải chúc lành, chúc lành Thiên Chúa và chúc lành mọi người. Chúng ta, các Kitô hữu, chúng ta là những con người đi chúc lành, biết chúc lành. Đó là một ơn gọi đẹp !
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(18 juin 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/la-condition-pour-faire-partie-de-l-eglise-faire-confiance-a-dieu

 

Chương trình chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Nam Hàn
(13-18 tháng 8 năm 2014)

Hội ngộ với tuổi trẻ Á Châu  

Rôma – 18/6/2014
(Zenit.orgAnita Bourdin
Tòa Rhánh vừa phổ biến sáng ngày thứ tư 18/5/2014 chương trình chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô tới Nam Hàn (13-18/8/2014) nhân dịp Ngày Đại Hội Giới Trẻ Á Chau lần thứ VI.
Ngài sẽ gặp gỡ giới trẻ ngày 15 và 17/8, trong Thánh Lễ bế mạc đại hội và sẽ dùng bữa với một số đại biểu của các quốc gia. Ngài sẽ gặp các Đức Giám Mục vào ngày 14 và 17 tháng 8/2014.
Ngài sẽ chủ tọa lễ phong chân phước cho 124 thánh tử đạo (trong đó có một linh mục người Trung Hoa), vào ngày 16/8/2014 tại Hán Thành (Seoul). Đức Giáo Hoàng cũng sẽ cử hành một Thánh Lễ cầu cho hòa bình và hòa giải vào ngày 18/8/2014.
Đức Giáo Hoàng sẽ đọc khoảng một chục bài diễn văn, giảng huấn và huấn đức.
Thứ Tư 13/8/2014
Khởi hành lúc 16 giờ từ phi trường Rôma-Ciampino
Thứ Năm 14/8/2014
10G30 Tới Seoul
12G00 Thánh Lễ riêng tại tòa khâm sứ
15G45 Lễ nghi đón tiếp trong khuôn viên Tòa Nhà Xanh [dinh tổng thống] tại Séoul
Và thăm viếng xã giao tổng thống Cộng Hòa
16G30 Gặp gỡ các quan chức trong sảnh đường Chungmu của Tòa Nhà Xanh (diễn văn của Đức Giáo Hoàng)
17G30 Gặp gỡ với các giám mục của Nam Hàn tại trụ sở HĐGM.
Thứ Sáu 15/8/2014
08G45 Khởi hành bằng trực thăng đi Taejeon
10G30 Thánh Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời tại sân vận động Giải Thế Vận Hội (bài giảng của Đức Giáo Hoàng)
Kinh Truyền Tin (huấn đức của Đức Giáo Hoàng)
13G30 Dùng bữa với giới trẻ tại Tiểu Chủng Viện Daejeon
16G30 Khởi hành bằng trực khăng tới thánh địa Solmoe
17G30 Gặp gỡ với giới trẻ Á Châu tại thánh địa Solmoe
19G15 Khởi hành bằng trực thăng trở về Séoul
Thứ Bẩy 16/8/2014
08G15 Viếng thăm thánh địa các thánh tử đạo tại Seosomun [cổng thành dẫn ra pháp trường xử tử các tội nhân và các thánh tử đạo Triều Tiên]
10G00 Thánh Lễ phong chân phước cho ngài Phaolô Yun Ji-Chung và 123 bạn hữu, tử đạo, tại cổng thành Gwanghwamun ở Seoul (bài giảng lễ của Đức Giáo Hoàng)
15G30 Di chuyển bằng trực thăng tới Kkottongnae [làng hoa – làng tình thương]
16G30 Thăm viếng Trung Tâm cho người khuyết tật "Nhà hy vọng" ở Kkottongnae
17G15 Gặp gỡ với các cộng đoàn tu sĩ Nam Hàn, tại trung tâm "Trường Học Tình Yêu" (diễn văn của Đức Giáo Hoàng)
18G30 Gặp gỡ những vị trách nhiệm mục vụ tín hữu giáo dân tại trung tâm tinh thần của Kkottongnae (diễn văn của Đức Giáo Hoàng)
19G00 Trở lại Séoul bằng trực thăng
Chúa Nhật 17/8/2014
10G00 Khởi hành đi Haemi bằng trực thăng
11G00 Tiếp kiến các giám mục Nam Hàn (diễn văn của Đức Giáo Hoàng)
13G00 Dùng bữa với các Đức Giám Mục Nam Hàn
16G00 Thánh Lễ bế mạc Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ VI, lâu đài Haemi (bài giảng của Đức Giáo Hoàng)
19G00 Khởi hành trở về Séoul bằng trực thăng
Thứ Hai 18/8/2014
09G00 Gặp gỡ các vị trách nhiệm Giáo Hội Đại Hằn, lâu đài cũ của tổng giáo phận.
09G45 Thánh Lễ cho hòa bình và hòa giải, vương cung thánh đường Myeong-dong (bài giảng của Đức Giáo Hoàng)
12G45 Lễ nghi tiễn biệt, căn cứ không quân Séoul
13G00 Khởi hành về Rôma-Ciampino
17G45 Tới Ciampino
Mạc khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
Những chữ trong [ ] là của dịch giả
(18 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/programme-du-voyage-du-pape-francois-en-coree-du-sud-13-18-aout

 

Trong Thánh Lễ, tình yêu khiêm nhượng của Thiên Chúa Ba Ngôi
Kinh Truyền Tin ngày 15 tháng 6 năm 2014

 

Rôma – 15/6/2014 (Zenit.orgAnita Bourdin
Thánh Lễ cũng giống như "Bụi lửa hồng", nơi Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong khiêm nhượng", Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích trước khi bắt đầu Kinh Truyền Tin hôm chúa nhật 15/6/2014, nhân Lễ Chúa Ba Ngôi.
Dưới đây là bản dịch toàn văn bài huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô, trước Kinh Truyền Tin, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Giáo Hoàng đã thông báo chuyến tông du Albany vào ngày 21/9/2014, và ngài đã đưa ra lời kêu gọi chấm dứt những khổ đau của nhân dân Irak, và đã yêu cầu đám đông đọc một kinh "Kính Mừng" cho ý chỉ này.
A.B.
Bài huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô về Thiên Chúa Ba Ngôi
Thân chào quý anh chị em,
Hôm nay chúng ta cử hành trọng thể Lễ Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có dịp suy ngẫm và thờ lậy sự sống Thiên Chúa của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần : một sự sống hiệp thông và yêu thương hoàn hảo, nguồn gốc và chung cuộc của toàn thể vũ trụ và của cả công trình tạo dựng : Thiên Chúa.
Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng nhận ra kiểu mẫu của Hội Thánh, trong đó chúng ta được kêu gọi hãy yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Chính tình yêu thương là dấu chỉ cụ thể của đức tin nơi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chính tình yêu thương là dấu hiệu riêng biệt của người Kitô hữu, như Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta rằng : "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng thương yêu nhau" (Ga 13, 35).
Thật là mâu thuẫn khi nghĩ rằng người Kitô hữu thù ghét nhau. Thật là một chuyện mâu thuẫn ! Ma quỷ luôn tìm kiếm chuyện này : làm cho chúng ta thù ghét nhau, bởi vì nó luôn gieo rắc bất hòa và thù hận; nó không hề biết đến yêu thương, vì yêu thương chính là Thiên Chúa !
Tất cả chúng ta được kêu gọi phải làm chứng và loan báo thông điệp "Thiên Chúa là tình yêu", Thiên Chúa không hề xa xôi, hay vô cảm với những thăng trầm của con người. Người gần gũi, Người luôn ở bên cạnh chúng ta, bước đi cùng chúng ta để chia sẻ những vui buồn, những hy vọng và mệt mỏi của chúng ta.
Người yêu thương chúng ta đến độ Người đã xuống thế gian làm người, không phải để phán xét thế gian, mà để cho thế gian được Chúa Giêsu cứu độ (x. Ga 3, 16-17). Và đó là tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Tình yêu này thật khó để hiểu được, nhưng chúng ta cũng có thể nhìn ra, khi chúng ta đến với Chúa Giêsu. Và Người, Người luôn tha thứ cho chúng ta, Người luôn chờ đợi chúng ta, Người yêu thương chúng ta biết bao ! Và tình yêu thương của Chúa Giêsu mà chúng ta thấy được, chính là tình yêu thương của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần, tặng phẩm của Chúa Giêsu phục sinh, thông ban cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa và như thế, Người đưa chúng ta vào động lực của Chúa Ba Ngôi, vốn là một động lực của tình yêu, của hiệp thông, của phục vụ lẫn nhau, của chia sẻ.
Một người đi yêu những người khác vì niềm vui được yêu là sự phản ánh của Chúa Ba Ngôi. Một gia đình nơi người ta thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau là sự phản ánh của Chúa Ba Ngôi. Một giáo xứ nơi người ta thương yêu nhau và chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất là phản ánh của Chúa Ba Ngôi.
Tình yêu đích thực là vô bờ bến, nhưng biết tự chế, để đi gặp gỡ người khác để tôn trọng tự do của người khác.
Tất cả mọi ngày chúa nhật, chúng ta đi lễ, chúng ta cùng nhau cử hành Thánh Lễ và Thánh Lễ giống như "bụi lửa hồng" nơi Chúa Ba Ngôi ngự trong khiêm nhượng : chính vi lẽ đó mà Hội Thánh đã đặt Lễ Mình Máu Thánh Chúa sau lễ Chúa Ba Ngôi.
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(15 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/dans-l-eucharistie-l-amour-humble-du-dieu-trinite

 

 

Các tổng thống Pérès và Abbas cùng hiện diện tại Vatican
Cầu nguyện chung cho hòa binh giữa Do Thái và Palestin
 

Rôma – 08/6/2014
(Zenit.orgAnne Kurian
Theo lời mời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tổng thống Do Thái, Shimon Pérès và tổng thống Palestina, Mahmoud Abbas đã có mặt tại Vatican, ngày 08/6/2014, để cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh Địa.
Người tới đầu tiên vào khoảng 18 giờ 05 là tổng thống Do Thái, Shimon Péres; ông đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô đón chào ngay ngưỡng cửa Nhà Thánh Martha; hai người đã nồng nhiệt ôm nhau, dưới ánh hoàng hôn trên thành Rôma. Các ngài, sau đó, đã trao đổi riêng với nhau.
Khoảng 20 phút sau, Đức Giáo Hoàng đã rời tổng thống Shimon Peres để đón chào tổng thống Mahmoud Abbas mới tới. Rất tươi cười, Đức Giáo Hoàng và tổng thống Palestin đã ôm nhau và đã cùng tới một phòng khách để hội đàm riêng.
15 phú sau, Đức Giáo Hoàng và hai vị tổng thống đã gặp nhau tại đại sảnh của Nhà Thánh Martha, ở đây các ngài đã gặp đức giáo chủ đại kết Bartholomaios Đệ Nhất. Tổng thống Shimon Peres và tổng thống Mahmoud Abbass đã ôm nhau thân thiện, dước ánh đèn của các nhiếp ảnh viên.
Cả bốn vị đã lên một chiếc xe buýt nhỏ để đi tới địa điểm dự trù gặp mặt : một không gian hình tam giác, giữa vườn cây xanh của Vatican, nằm giữa Hàn Lâm Viện khoa học xã hội và các Viện bảo tàng của Vatican. Tại đây đã có những người đại diện của ba tôn giáo đợi sẵn, trong đó có giáo sĩ rabbi Abraham Skorka và giáo trưởng imam Omar Abboud, hai người bạn Á-căn-đình của Đức Giáo Hoàng.
Trong cái dịu mát buổi chiều và giữa cây cối xanh tươi của Vatican, Đức Giáo Hoàng và hai vị tổng thống đã an tọa trên những chiếc ghế bành, trong lúc một giàn nhạc liên tôn hòa tấu bản adagio cung Si thứ dành cho đàn dây của Simon Barber.
Ba tôn giáo – theo thứ tự, Do Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo – nơi đây đã có một thời gian cầu nguyện riêng biệt cho hòa bình. Sau thời gian đó, Đức Giáo Hoàng, và hai vị tổng thống sẽ lên tiếng và bầy tỏ những cử chỉ hòa bình : một cái bắt tay, và cùng trồng một cây ô-liu tượng trưng cho hòa bình.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
( 8 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-presidents-peres-et-abbas-ensemble-au-vatican

 

Thánh địa : bẻ gẫy vòng xoáy bạo lực với từ "anh em"
Cầu nguyện cho hòa bình ngày 08 tháng 6 năm 2014 (toàn văn)  

Rôma – 08/6/2014 (Zenit.org)
Chúng ta đã nghe thấy một lời kêu gọi, và chúng ta phải trả lời : lời kêu gọi bẻ gẫy vòng xoáy thù hận và bạo lực, bẻ gẫy nó với chỉ một lời : 'anh em'; Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố ngày 08/6/2014, trong cuộc hội ngộ lịch sử tại Vatican để cầu nguyện cho hòa bình.
Theo lời mời của Đức Giáo Hoàng, tổng thống Do Thái Shimon Peres và tổng thống Palestina Mahmoud Abbas đã thực sự gặp nhau trong vườn cây của Vatican, bên cạnh Đức Giáo Hoàng, để cầu nguyện cho hòa bình ở Thánh Địa. Các đại biểu của ba tôn giáo – Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo – đã sát cánh bên nhau dâng lên những lời cầu nguyện, trước khi Đức Giáo Hoàng và hai vị tổng thống lên tiếng.
"Để làm hòa, phải có cam đảm, nhiều hơn là để làm chiến tranh. Phải có can đảm để nói được với gặp gỡ và nói không với đối đầu; được với đối thoại và không với bạo lực; được với thương thuyết và không với thù nghịch; được với tôn trọng thỏa ước và không với khiêu khích; được với thành thực và không với giả dốì. Để như thế, phải có can đảm, có một sức mạnh tâm hồn to lớn", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Ngài đã cảm ơn "tự đáy lòng" các tổng thống Shimon Peres và Mahmoud Abbas đã nhận lời mời của ngài : "Sự hiện diện của quý ngài Tổng Thống, là một chỉ dấu của tình huynh đệ, mà quý ngài thực hiện với tư cách là con cái của tổ phụ Abraham, và là một sự biểu lộ cụ thể lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa".
Đức Giáo Hoàng đã kết thúc bằng một lời cầu nguyện, bởi vì "lịch sử dậy cho chúng ta rằng chỉ dựa vào sức mạnh của chúng ta thôi thì không đủ. Chúng ta cần có sự phù trợ của Thiên Chúa" : "Các nỗ lực của chúng con đều là vô dụng. Hiện giờ, Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, lạy Chúa ! Xin cho chúng con hòa binh, lạy Chúa, xin dạy cho chúng con hòa bình, lạy Chúa, xin dẫn dắt chúng con đi đến hòa bình, lạy Chúa… Xin đuổi ra khỏi tâm hồn mỗi con người những từ như : chia rẽ, hận thù, chiến tranh ! Lạy Chúa, hãy giải giới miệng lưỡi và hai tay chúng con, hãy canh tân lòng trí chúng con, để cho lời nói khiến chúng con gặp nhau luôn là từ "anh em", và cho cách sống của chúng con trở thành : shalom, hòa bình, salam !".
A.K.
Diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Kính thưa quý vị Tổng Thống,
Kính thưa Đức Thánh Giáo Chủ,
Thưa quý anh chị em,
Với niềm vui mừng to lớn, tôi chào mừng và mong muốn cống hiến quý vị và các đoàn đại biểu cao quý tháp tùng quý vị, một sự đón tiếp cũng nồng nhiệt như quý vị đã dành cho tôi trong chuyến hành hương mà tôi vừa thực hiện tại Thánh Địa.
Tự đáy lòng, tôi cảm ơn quý vị đã nhận lời mời của tôi đã tới đây để cầu xin từ Thiên Chúa ơn hòa bình. Tôi hy vọng rằng cuộc hội ngộ này sẽ là sự khởi đầu của một hành trình mới đi tìm sự kết hợp, để vượt qua những chia rẽ.
Và tôi cảm ơn Đức Thánh Giáo Chủ, quý Huynh Bartholomaios, đã tới đây với tôi để đón tiếp các vị khách quý. Sự tham gia của ngài là một đại ân, một sự nâng đỡ quý báu; nó là một sự làm chứng cho con đường mà, như là các Kitô hữu, chúng ta cùng đi tới sự hiệp nhất đầy đủ.
Thưa quý vị Tổng Thống, sự hiện diện của quý vị là một chỉ dấu to lớn cho tình huynh đệ, mà quý vị thực hiện như là con cái của tổ phụ Abraham, và là một sự thể hiện cụ thể lòng tin nơi Thiên Chúa, Chúa tể lịch sử, Người đang nhìn chúng ta ngày hôm nay như các anh em của nhau và muốn dẫn đưa chúng ta trên các nẻo đường của Người.
Cuộc hội ngộ cầu nguyện này cho hòa bình ở Thánh Địa, ở Trung Đông và trên toàn thế giới, được tháp tùng bởi sự cầu nguyện của rất nhiều người, thuộc về những nền văn hóa, tổ quốc, ngôn ngữ và tôn giáo khác nhau : của những người đã cầu nguyện cho cuộc hội ngộ này và, hiện nay, đang hiệp nhất với chúng ta trong cùng một ý nguyện cầu. Đây là một cuộc hội ngộ đáp lại mong muốn nhiệt tình của tất cả những người đang khát khao hòa bình và ước mơ một thế giới mà những con người nam, cũng như nữ có thể sống bên nhau như những anh em, và không như những đối thủ hay những kẻ thù.
Thưa quý vị Tổng Thống, thế giới là một gia sản mà chúng ta thừa hưởng của tổ tiên chúng ta, nhưng đó cũng chính là một món nợ mà con cái chúng ta phải vay mượn : những đứa con mệt mỏi và kiệt sức bởi những xung đột và đầy ước vọng đạt tới bình minh của hòa bình; những đứa con đang yêu cầu đập bỏ những bức tường thù nghịch và đi trên những con đường đối thoại và hòa bình để cho tình yêu và tình bạn thắng lợi.
Có nhiều, quá nhiều những đứa con đó đã ngã xuống, nạn nhân vô tội của chiến tranh và của bạo lực, cây non bị nhổ đi đang lúc tràn đầy sinh lực. Đó là bổn phận chúng ta phải làm để cho sự hy sinh của họ không là vô hiệu. Mong rằng ký ức của họ sẽ truyền cho chúng ta sự can đảm của hòa bình, sức mạnh kiên trì trong đối thoại bằng mọi giá, sự kiên nhẫn đan kết, ngày này qua ngày khác, tấm lưới luôn chắc chắn hơn của một sự sống chung tương kính và hòa bình, vì vinh quang của Thiên Chúa và lợi ích cho tất cả mọi người.
Để làm hòa, phải có can đảm, có nhiều hơn cả để làm chiến tranh. Phải có can đảm để nói "được" với gặp gỡ và nói "không" với đối đầu; được với đối thoại và không với bạo lực; được với thương thuyết và không với thù nghịch; được với tôn trọng thỏa ước và không với khiêu khích; được với thành thực và không với giả dốì. Để như thế, phải có can đảm, có một sức mạnh tâm hồn to lớn.
Lịch sử dậy cho chúng ta rằng chỉ dựa vào sức mạnh của chúng ta thôi thì không đủ. Hơn một lần, chúng ta đã tới gần với hòa bình, nhưng quỷ dữ, bằng nhiều phương cách, đã ngăn cản. Vì thế chúng ta ở đây, bởi vì chúng ta biết và chúng ta tin rằng chúng ta cần sự phù trợ của Thiên Chúa. Chúng ta không từ bỏ trách nhiệm của chúng ta, nhưng chúng ta cầu nguyện Thiên Chúa như một hành động trách nhiệm tối thượng, đối với lương tâm và đối với dân chúng của chúng ta. Chúng ta đã nghe thấy một lời kêu gọi, và chúng ta phải trả lời : lời kêu gọi bẻ gẫy vòng xoáy thù hận và bạo lực, bẻ gẫy nó với chỉ một tiếng : "anh em". Nhưng để nói lên lời đó, tất cả chúng ta đều phải ngước mắt lên Trời, và công nhận chúng ta là con cái của một Cha duy nhất.
Chính với Người mà tôi dâng lên lời cầu khẩn, trong Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô, và khẩn nài lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, người là con gái của Thánh Địa và là Mẹ chúng ta :
Lạy Chúa là Chúa Hòa Bình, xin hãy nghe lời chúng con khẩn nguyện !
Chúng con đã bao lần và trong biết bao năm tìm cách giải quyết những xung đột của chúng con với những lực lượng của chúng con và cũng cả với vũ khí của chúng con; biết bao nhiêu lúc thù nghịch và đen tối; biết bao máu đã đổ ra; biết bao cuộc đời đổ vỡ, biết bao niềm hy vọng bị chôn vùi… Nhưng các nỗ lực của chúng con đều là vô dụng. Hiện giờ, Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, lạy Chúa ! Xin cho chúng con hòa binh, lạy Chúa, xin dạy cho chúng con hòa bình, lạy Chúa, xin dẫn dắt chúng con đi đến hòa bình, lạy Chúa. Xin Chúa mở mắt, mở lòng chúng con và ban cho chúng con can đảm để nói rằng : "không bao giờ có chiến tranh nữa"; với chiến tranh tất cả bị phá hoại !". Xin Chúa truyền cho chúng con lòng can đảm thực hiện những cử chỉ cụ thể để xây dựng hòa bình. Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham và các Ngôn Sứ, Thiên Chúa Tình Yêu đã tạo dựng chúng ta và kêu gọi chúng ta hãy sống như anh em, xin Chúa ban cho chúng con sức mạnh để mỗi ngày là người thợ đi xây dựng hòa bình; xin Chúa ban cho chúng con khả năng nhìn với đôi mắt khoan hòa tất cả anh em mà chúng con gặp mặt trên đường chúng con đi. Xin Chúa làm cho chúng con sẵn sàng nghe tiếng kêu mà các đồng hương của chúng con cầu xin chúng con hãy biến đổi vũ khí của chúng con thành khí cụ của hòa bình, biến đổi những sợ hãi của chúng con thành tin tưởng và những căng thẳng của chúng con thành thứ tha. Xin Chúa hãy giữ cho ngọn lửa hy vọng trong chúng con được thắp sáng để chu toàn với lòng kiên trì nhẫn nại sự lựa chọn đối thoại và hòa giải, để cuối cùng hòa bình sẽ toàn thắng. Và xin Chúa xua đuổi ra khỏi tâm hồn mỗi con người những từ như : chia rẽ, hận thù, chiến tranh ! Lạy Chúa, hãy giải giới miệng lưỡi và hai tay chúng con, hãy canh tân lòng trí chúng con, để cho lời nói khiến chúng con gặp nhau luôn là từ "anh em", và cho cách sống của chúng con trở thành : shalom, hòa bình, salam ! Amen
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch.
( 8 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/terre-sainte-rompre-la-spirale-de-la-violence-avec-le-mot-frere

 

"Có vẻ một người thánh thiện" không đủ,
phải "hiệp thông" với Thiên Chúa và người khác

Bài giáo lý ngày 04 tháng 6 năm 2014 về ơn đạo đức (toàn văn)

 

Rôma – 04/6/2014 (Zenit.org)
Ơn đạo đức [còn gọi là ơn sốt sắng, ơn sùng hiếu] không phải là "nhắm mắt, làm bộ mặt sốt sắng, ra vẻ như là một người thánh thiện" : mà chính là phải "hiệp thông với Thiên Chúa" và là có khả năng "vui với người vui, khóc với người khóc, gần gũi với người cô đơn hay lo lắng, uốn nắn người sai lầm, an ủi người đau khổ, đón nhận và cứu trợ người có nhu cầu", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố.
Trong buổi trỉều kiến hôm thứ tư 04/6/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng đã dành bài giáo lý của ngài để nói về ơn thứ sáu trong 7 ơn Chúa Thánh Thần : ơn đạo đức, có nghĩa là "thuộc về Thiên Chúa và gắn kết sâu đậm vói Nguời".
Ơn này "cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa và giữ chặt chúng ta trong hiệp thông với Thiên Chúa, ngay cả trong những lúc khó khăn và thử thách", Đức Giáo Hoàng đã nói tiếp.
Ơn này là "một quan hệ trải nghiệm với tấm lòng : chính là tình bằng hữu với Thiên Chúa, đồng nghĩa với một tinh thần đạo đức đích thực, với một sự tin tưởng hiếu thảo con cái nơi Thiên Chúa, với cái khả năng cầu xin Người với tình yêu thương và sự đơn giản của riêng những người khiêm nhường trong lòng".
A.K.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Hôm nay, chúng ta dừng lại với một ơn của Chúa Thánh Thần mà rất nhiều khi không được hiểu đúng nghĩa và được coi như là một cách hời hợt bề mặt, nhưng trái lại, ơn này đụng đến trọng tâm của căn cước chúng ta và đến cuộc đời Kitô hữu của chúng ta : đó là ơn đạo đức.
Cần phải khẳng định ngay rằng ơn này không thể được hiểu như một sự đồng hóa với lòng thương cảm đối với một người nào, với lòng thương hại đối với tha nhân (tiếng Ý từ "pietà" có thể dịch là sự "sốt sắng" hay sự "thương hại"), nhưng ơn này cho thấy, chúng ta thuộc về Thiên Chúa và mối quan hệ sâu đậm của chúng ta với Người, một sợi dây có tác dụng ban cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa và giữ chặt chúng ta trong sự hiệp thông với Người, ngay cả trong những lúc khó khăn và thử thách .
1. Mối quan hệ giữa Chúa và chúng ta không thể coi như một bổn phận hay một chuyện bắt buộc. Đó là mối quan hệ đến từ nội tâm. Đúng là một mối quan hệ được trải nghiệm với con tim : đó là tình bằng hữu với Thiên Chúa, là Đấng đã ban tình bạn đó cho chúng ta qua Chúa Giêsu, một tình bạn thay đổi cuộc sống chúng ta và làm cho chúng ta tràn đầy hứng khởi và vui mừng. Vì thế ơn đạo đức khơi dậy trong chúng ta, trước hết là lòng biết ơn và ca tụng. Quả vật, chính điều này là mục đích và ý nghĩa đích thực nhất của tín ngưỡng và tôn thờ của chúng ta. Khi Chúa Thánh Thần cho chúng ta thoáng thấy được sự hiện diện của Chúa và tất cả tình yêu thương của Người dành cho chúng ta, Chúa Thánh Thần sưởi ấm lòng chúng ta và thôi thúc chúng ta, bằng cách gần như là tự nhiên, cầu nguyện và tôn thờ. Như thế, ơn đạo đức đồng nghĩa với một tinh thần đạo đức đích thực, một sự tin tưởng hiếu thảo con cái nơi Thiên Chúa, khả năng cầu xin Người với tình yêu thương và sự đơn giản của riêng những người khiêm nhường trong lòng
2. Nếu ơn đạo đức làm chúng ta lớn lên trong quan hệ và sự hiệp thông với Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta sống như con cái của Người, đồng thời, giúp cho chúng ta cũng san sẻ tình yêu đó cho người khác và nhìn nhận họ là anh em ruột thịt của mình. Thì như thế, đúng là chúng ta được thúc đẩy bởi những tình cảm thương xót - chứ không phải là sốt sắng bề ngoài ! - đối với người ở bên cạnh chúng ta và những người mà chúng ta thường gặp mỗi ngày. Tại sao tôi nói "không là sốt sắng bề ngoài ?". Bởi vì có nhiều người nghĩ rằng sự sốt sắng là nhắm nghiền hai mắt, và mặt làm như trong hình các thánh, làm bộ như một vị thánh. Ở xứ Piémont, chúng tôi gọi đó là "ngây thơ giả bộ". Đó không phải là ơn đạo đức. Ơn đạo đức có nghĩa là thực sự có thể vui với người vui, khóc với kẻ khóc, gần gũi với kẻ cô đơn, lo lắng, uốn nắn người lầm lỗi, an ủi người đau khổ, đón nhận và cứu trợ người có nhu cầu. Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa ơn đạo đức và sự dịu dàng. Ơn đạo đức, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, khiến chúng ta trở nên dịu hiền, thanh thản, kiên nhẫn, có ơn nghĩa với Thiên Chúa, phục vụ người khác với sự dịu dàng.
Các bạn thân mến, trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định : "Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : Áp-ba ! Cha ơi !" (Rm 8 14-15). Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ơn Chúa Thánh Thần có thể chiến thắng nỗi sợ hãi, những hoang mang, tinh thần lo lắng, nôn nóng của chúng ta, để có thể biến chúng ta thành những chứng nhân vui mừng của Thiên Chúa và của tình yêu Người, thờ lậy Chúa trong thực tế, cũng như trong phục vụ tha nhân với sự dịu dàng và với nụ cười mà Chúa Thánh Thần luôn ban cho chúng ta trong nỗi vui mừng. Cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng ta ơn đạo đức.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 4 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/avoir-l-air-d-un-saint-ne-suffit-pas-il-faut-la-communion-avec-dieu-et-les-autres

 

Chúa ở cùng chúng ta : anh chị em có tin không ?
Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ngài 01 tháng 6 năm 2014 Suy ngẫm về lễ Thăng Thiên

 

Roma – 01/6/2014 (Zenit.org)
Chúa Giêsu gần gũi với tất cả chúng ta, hôm nay cũng vậy, Người ở với chúng ta trên quảng trường này. Chúa ở cùng chúng ta : anh chị em có tin không ? Chúng cùng nói lên điều đó nhé : "Chúa ở cùng chúng ta !" Tất cả !" ; đó là lời hô hào của Đức Giáo Hoàng Phanxicô; ngài đã suy ngẫm về lễ Thăng Thiên của Chúa Giêsu, ngày chúa nhật 01/6/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô, trước khi khai kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng.
Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh rằng Đức Kitô Giêsu tới "trước mặt Chúa Cha" với những thương tích của Người, vốn là "cái giá của sự thứ tha" : "Anh chị em đừng sợ xin tha thứ ! Người luôn tha thứ ! Anh chị em đừng sợ ! Bởi vi Người nhìn thấy những thương tích của Chúa Giêsu, Người nhìn thấy tội lỗi chúng ta và người tha thứ".
A.B.
Bài huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến,
Tại Ý và nhiều quốc gia khác, người ta mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, xẩy tới 40 ngày sau lễ Phục Sinh.
Sách Tông Đồ Công Vụ kể về giai đoạn này, sự cách biệt cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người và với thế gian này (x. Cv 1, 2. 9)
Nhưng Tin Mừng theo Thánh Mátthêu thuật lại mệnh lệnh của Chúa Giêsu ban cho các môn đệ của Người : sai phái ra đi và loan truyền cho mọi dân tộc thông điệp cứu độ của Người (x. Mt 16-20). "Ra đi", hoặc hay hơn là "đi tới" trở thành từ khóa của ngày lễ hôm nay : Chúa Giêsu đi tới với Chúa Cha và Người chỉ thị cho các môn đệ của Người hãy đi tới với thế gian.
Chúa Giêsu ra đi, Người lên Trời, nghĩa là Người trở về với Chúa Cha, là Đấng đã sai Người đến thế gian. Người đã hoàn thành công việc của Người và trở về với Chúa Cha.
Nhưng đây không phải là một sự chia cách, bởi vì Người vẫn mãi mãi ở cùng chúng ta, dưới một hình thức mới. Bởi sự kiện Người Thăng Thiên, Chúa phục sinh đã thu hút nhãn quan của các tông đồ - và cả nhãn quan của chúng ta – lên những tầng Trời cao để chỉ cho chúng ta đích tới của hành trình chúng ta, chính là Chúa Cha.
Chính Người đã phán rằng Người ra đi để dọn chỗ cho chúng ta trên Trời.
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn có mặt và tác động trong những biến cố lịch sử của loài người, với sức mạnh và những ơn phúc của Chúa Thánh Thần. Người ở gần mỗi người chúng ta, dù là con mắt chúng ta không nhìn thấy Người, nhưng Người ở đó ! Người đồng hành với chúng ta, Người hướng dẫn chúng ta, Người dắt tay chúng ta đi, Người nâng đỡ chúng ta lên khi chúng ta vấp ngã. Chúa Giêsu phục sinh gần gũi với những Kitô hữu bị bách hại và là nạn nhân của sự kỳ thị. Người ở gần mọi người nam cũng như nữ đang đau khổ.
Người ở gần tất cả chúng ta, ngày hôm nay cũng vậy, Người đang ở với chúng ta ngay trên quảng trường này ! Chúa ở với chúng ta : anh chi em có tin không ? Chúng ta hãy cùng nhau nói lên điều này : "Chúa ở với chúng ta !" Tất cả ! "Chúa ở với chúng ta !" Một lần nữa : "Chúa ở với chúng ta !"
Và khi Chúa Giêsu lên Trời, Người mang một cống phẩm dâng lên Chúa Cha : anh chị em có nghĩ tới điều này không ? Cống phẫm Chúa Giêsu dâng lê Chúa Cha là gì ? Là các thương tích của Người ! Đó là cống phẩm mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha : Nhiệm Thể của Người rất đẹp, nếu không bị bầm vập, không bị thương tích vì đòn vọt : rất đẹp ! Nhưng, Người đã giữ lại các thương tích. Và khi Người về với Chúa Cha, Người thưa với Chúa Cha rằng "Lậy Cha, đây là cái giá của sự tha thứ mà Cha đã thương ban". Và khi Chúa Cha nhìn thấy những thương tích của Chúa Giêsu, Người luôn tha thứ cho chúng ta.
Không bởi vì chúng ta tốt lành, không ! Mà bởi vì Chúa đã trả giá cho chúng ta ! Khi nhìn thấy các thương tích của Chúa Giêsu, Chúa Cha trở nên nhân lành hơn… vĩ đại hơn. Đó là công trình lớn lao của Chúa Giêsu ngày hôm nay trên Trời : Người trình cho Chúa Cha thấy cái giá của sự thứ tha, là các thương tích của Người. Thật là đẹp ! Anh chị em đừng sợ cầu xin tha thứ ! Người luôn thứ tha ! Anh chị em đừng sợ ! Bởi vì Người nhìn thấy các thương tích của Chúa Giêsu, Người nhìn thấy tội lỗi của chúng ta và Người tha thứ.
Nhưng Chúa Giêsu cũng hiện diện bởi Hội Thánh mà Người đã sai đi kéo dài sứ vụ của Người. Những lời cuối cùng Chúa Giêsu phán bảo các môn đệ Người là một mệnh lệnh lên đường : "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28, 19). Đây là một mệnh lệnh bắt buộc, không phải một mệnh lệnh tùy nghi ! Cộng đoàn Kitô giáo là một cộng đoàn "đi ra", một cộng đoàn "sắp đi". Hơn thế nữa, Hội Thánh sinh ra ở thế "đi ra" ! Anh chị em có thể nói với tôi : thế còn những cộng đoàn chiêm niệm thì sao ? Đúng, cả các cộng đoàn này nữa, bởi vì họ luôn trong cái thể "đi ra" bằng cầu nguyện, mở lòng ra với thế giới, với những chân trời của Thiên Chúa. Và những người già cả, những người bệnh hoạn thì sao ? Họ cũng vậy, bằng lời cầu nguyện và sự hiệp nhất với những thương tích của Chúa Giêsu.
Với các môn đệ thừa sai của Người, Chúa Giêsu phán : "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Không có Chúa Giêsu, một mình chúng ta không làm được gì ! Trong công trình tông đồ, sức lực, tài nguyên, cấu trúc của chúng ta không đủ, dù rằng chúng cần thiết. Nhưng chúng không đủ. Không có sự hiện diện của Chúa Giêsu và không có sức mạnh của Thần Khí Người, công việc của chúng ta, cho dù là có tổ chức, thì cũng cho thấy là vô hiệu.
Và như thế, chúng ta ra đi nói với mọi người Chúa Giêsu là ai. Nhưng tôi muốn rằng anh chị em đừng quên món quà mà Chúa Giêsu manh lên cho Cha Người. Món quà gi ? Đúng, các thương tich của Người. Bởi vì nhờ những thương tích đó, Người đã cho Cha Người thấy được cái giá sự tha thứ của Cha Người.
Với Chúa Giêsu, Mẹ Maria, mẹ chúng ta cũng đồng hành với chúng ta. Mẹ đã ở trong nhà Chúa Cha, Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng và chính với tước hiệu này mà chúng ta cầu khẩn Mẹ trong lúc này. Nhưng, cũng như Chúa Giêsu, Mẹ ở với chúng ta, Mẹ là Mẹ niềm hy vọng của chúng ta
Lậy Nữ Vương Thiên Đàng hảy vui mừng…
Traduction de Zenit, Anita Bourdin
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 1 juin 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-seigneur-est-avec-nous-croyez-vous-cela

 

Linh Mục ấu dâm cũng như một "lễ đen"
Trao đổi trên chuyến bay Tel Aviv về Rôma  

Rôma – 27/5/2014 (Zenit.org
Những hành động ấu dâm của linh mục, "cũng như làm một lễ đen", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích : chính Nhiệm Thể Đức Kitô bị ô uế"
Những gì cha Federico Lombardi, phát ngôn viên của ngài, đã thông báo, khi giới thiệu chuyến tông du như là "phép lạ" nếu những gì xẩy ra đã xẩy ra : sau cuộc chạy đua 3 ngày tại Đất Thánh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trả lời những câu hỏi của các phóng viên trên chuyến bay trở về Rôma [về các vấn đề] thất nghiệp, giới trẻ, "trợ tử dấu diếm" nơi những người già, môi sinh, quy chế thành Giêrusalem, tự do tôn giáo, bách hại Kitô hữu, truyền chức cho người có vợ, cải tổ giáo triều, cầu nguyện với các tổng thống Abbas và Peres, đại kết, châu Âu, các chuyến tông du tới Sri Lanka và Philippin, tài chánh của Vatican, ấu dâm (mức chấp nhận số không (zêrô)… Sau đây là những nét chủ yếu của cuộc trao đổi, theo bản dịch ra tiếng Pháp của Radio Vatican.
Những cử chỉ đột phát
"Những cử chỉ đích thực nhất là những cử chỉ người ta không nghĩ trước, chúng xẩy ra một cách bỗng nhiên. Tôi đã nghĩ sẽ làm điều gì, nhưng không nghĩ sẽ làm cụ thể một cử chỉ nào (…). Việc mời hai vị tổng thống cầu nguyện, người ta đã nghĩ làm chuyện đó ở đây, nhưng có biết bao là những vấn đề tiếp vận. (…) Các ông phải chú trọng đến địa điểm thực hiện việc này, và không dễ, phải không ? (…) Tôi thoáng nghĩ phải làm điều gì, rất là đột phát, là như thế. Ít ra, thú thực, đã có người nói 'nơi đó, người ta có thể làm điều gì' nhưng cụ thể thì chẳng có điu gì cả. Thí dụ, ở Yad Vashem, không có cử chỉ gì được sửa soạn trước, đã xẩy ra như thế, một cách tự nhiên".
Ấu dâm : mức chấp nhận là zêrô
"Hiện nay có 3 giám mục đang trong vòng điều tra. Một người đã bị kết án, mà chúng tôi đang nghiên cứu hình phạt nào cho đương sự. Không có đặc ân. Sự lạm dụng trẻ em vị thành niên này là một tội ác quá xấu xa. Chúng tôi biết, đây là một vấn nạn trầm trọng, ở khắp mọi nơi, nhưng điều làm tôi chú ý, chính là Giáo Hội. Một linh mục làm ra chuyện này, tức là ông ta phản bội Nhiệm Thể của Chúa. Bởi vì linh mục này đang lẽ phải dẫn dắt em bé trai hay em bé gái này, cậu thiếu niên hay cô thiếu nữ này, anh thanh niên hay chị thanh nữ này đến sự thánh thiện. Và cậu con trai hay cô con gái này tin tưởng, và ông linh mục này, thay vì mang đến cho các em sự thánh thiện, lại lạm dụng các em, và điều này rất là nghiêm trọng ! Tôi sẽ đưa ra một sự so sánh : cũng như là làm một lễ đen chẳng hạn, phải không ? Anh phải đưa người ta đến sự thánh thiện và anh lại dẫn họ đến một vấn đề kéo dài suốt cuộc đời họ. (…) Đầu tháng Sáu (…) sẽ có một Thánh Lễ cùng với 7 hay 8 nạn nhân, tại Nhà thánh Martha, và sau đó; có một cuộc hội họp với họ. Tôi với họ. Hai người đến từ Đức, hai người từ Anh hay Ai-len tôi không rõ… Sẽ có 8 người, cùng với Đức Hồng Y O'Malley, là thành viên của ủy ban. Nhưng về vấn đề này, phải đi xa hơn nữa, xa hơn nữa : mức chấp nhận là zêrô".
Giáo Hội khó nghèo và những điều tai tiếng
"Có lần Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ, ở trong Phúc Âm có ghi : "không tránh khỏi có những điều tai tiếng". Chúng ta là những con người, tất cả đều là những kẻ tội lỗi, và sẽ còn có nhiều người nữa. Vấn đề là tránh để đừng có thêm [điều tai tiếng], phải không ? Trong quản trị kinh tế phải lương thiện và trong sáng. Hai ủy ban, uỷ ban nghiên cứu tài chánh của Vatican (IOR) và ủy ban nghiên cứu toàn bộ giáo triều Vatican, đã đưa ra các kết luận của họ, và cũng đã đề nghị các chương trình hành động. Và bây giờ, với thánh bộ, nói thẳng ra là bộ kinh tế, dưới quyền điều khiển của ĐHY Pell, các cải tổ đề nghị sẽ được thực hiện. Nhưng sẽ có những điều kém lịch thiệp, sẽ mãi còn những cái đó bởi vì chúng ta là những con người. Và sự cải tổ cần được tiếp tục . Các Thượng Phụ của Giáo Hội đã nói : Ecclesia semper reformanda (Giáo Hội phải luôn cải tổ). Chúng ta phải chú tâm cải tổ Giáo Hội mỗi ngày, bởi vì chúng là những kẻ tội lỗi, chúng ta yếu đuối, và vẫn sẽ còn có vấn đề. Việc quản trị mà Bộ kinh tế thực hiện sẽ giúp cho nhiều người tránh được những điều tai tiếng, những vấn đề. Ở cơ quan IOR chẳng hạn, tôi nghĩ là đến ngày hôm nay, đã có 1600 trương mục bị đóng, hơn hay kém, đó là con số mà tôi nhớ, các trương mục của những người không có quyền gì để có ở đó. IOR là để giúp Giáo Hội. Các giám mục và các giáo phận có quyền, các nhân viên của Vatican, các vợ hay chồng ở góa để nhận lương hưu trí, như vậy đó. Nhưng có nhiều người không có quyền. Các tòa đại sứ thì được, bao lâu còn là tòa đại sứ, nhưng chẳng có gì hơn. Không phải là một chuyện công khai. Và đóng các trương mục của những người không có quyền là một điều tốt.
Tôi muốn nói một điều : trong câu hỏi của các vị, các vị đã nhắc đến chuyện 15 triệu euros. Đó là một điều đang trong nghiên cứu, không rõ ràng. Có lẽ đây có phải là sự thật, nhưng hiện nay, vấn đề chưa ngã ngũ, nó đang trong điều tra. Chính là để công bằng, phải không ?"
Một hệ thống kinh tế giết người
"Ngày nay, nhiều người Âu Châu lo sợ, họ nghĩ rằng không có tương lai ở Châu Âu, đang có nhiều người thất nghiệp và những đảng chống Âu Châu đang gia tăng trong cuộc bầu cử mới đây… Đó là một vấn đề tôi nghe được, Âu Châu, sự tin tưởng hay mất tin tưởng vào Âu Châu, những người muốn rút lui khỏi đồng Euro… Trong lãnh vực này, tôi không hiểu biết nhiều. Nhưng quý vị đã nói lên từ khóa là thất nghiệp. Điều này là trầm trọng. Nghiêm trọng. Tôi diễn giải như thế đó, một cách đơn giản. Chúng ta ở trong một hệ thống kinh tế thế giới nơi tiền bạc trở thành trung tâm. Không phải là con người. Ở trung tâm của một hệ thống kinh tế đích thực, thì phải có người nam và nữ, có con người. Và ngày nay, ở trung tâm, chỉ có tiền bạc. Để duy trì hệ thống này và để cân bằng nó, nó phải tiến tới với một số những thải loại.
"Người ta thải loại các em nhỏ. Ở Âu Châu, tỷ số sinh đẻ không lớn là bao : tôi nghĩ rằng ở Ý nó là 1,2. Ở Pháp, nó là 2, ở Tây Ban Nha, ít hơn ở Ý. Người ta vứt bỏ các em nhỏ, người ta vứt bỏ những người già, vì họ không có ích lợi gì. Vào lúc này, đó là thời cơ, người ta tới thăm họ vì họ có lương hưu trí mà người ta cần, nhưng chỉ là cơ hội. Người ta vứt bỏ người già. Cũng có những tường hợp trợ tử lén lút, trong nhiều quốc gia. Nghĩa là với những dược liệu mà người ta cho đến một lúc nào đó… Vào lúc này, người ta vứt bỏ người trẻ. Và đây là điều rất nghiêm trọng. Ở Ý, tôi nghĩ rằng tỷ số người trẻ thất nghiệp gần như là 40%. Ở Tây Ban Nha, tôi chắc chắn, nó là 50%. Ở Andalusia, miền Nam Tây Ban Nha, nó là 60% ! Điều này có nghĩa là có cả một thế hệ 'vô, vô' : họ vô học và vô nghề nghiệp. Điều này rất là nghiêm trọng, người ta vứt bỏ một thế hệ tuổi trẻ. Theo tôi, nền văn hóa thải loại này rất là nghiêm trọng. Nhưng không phải chỉ ở Âu Châu, mà gần như ở khắp mọi nơi, nhưng ở Âu Châu điều này cảm thấy mãnh liệt hơn. Nếu phải làm một sự so sánh, cách đây 10 năm, đã có nền văn hóa thoải mái. Và đó là thảm kịch. Đó là một giai đoạn khó khăn, bởi vì có một hệ thống kinh tế vô nhân đạo. Tôi đã không sợ khi viết trong Tông Huấn Evangelii Gaudium rằng hệ thống kinh tế này giết người, và tôi lập lại điều này".
Câu hỏi về Giêrusalem
"Có rất nhiều đề nghị về vấn đề Giêrusalem. Giáo Hội Công Giáo, nói ngay ra là Vatican, có quan niệm tôn giáo của mình : đó sẽ là thành phố hòa bình của ba tôn giáo. Đó là một quan điểm tôn giáo.
"Những biện pháp cụ thể cho hòa bình phải xuất phát từ thương thảo. Phải thương thảo. Tôi sẽ đồng ý để, trong những cuộc thương thảo, người ta nói rằng : phần đất này sẽ là thủ đô của một quốc gia, phần kia là của nước kia. Nhưng đó là những giả thuyết. Tôi không nói là chuyện này phải như thế đó. Đó là những giả thuyết phải được thương thảo. Thật vậy, tôi không cảm thấy có thẩm quyền để bảo phải làm cái này hay cái kia, điều đó sẽ là một sự điên rồ. Nhưng tôi nghĩ là phải đi vào thương thuyết với sự lương thiện, tình huynh đệ và nhiều tin tưởng. Ở đó, người ta thương thảo tất cả : đất đai, quan hệ… phải có can đảm để làm điều này và cầu xin Chúa cho những người lãnh đạo này, các chính phủ này có can đảm tiến lên phía trước. Đó là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình.
"Nhưng Giêrusalem như thế này hay như thế kia, tôi chỉ có thể nói điều mà Giáo Hội phải nói và đã luôn nói : ước mong Giêrusalem được giữ như là thủ đô của ba tôn giáo như một quy chiếu, một thành phố của hòa bình, và tôi đã nghĩ đến từ "thánh thiêng", nhưng điều này không đúng, nhưng là một thành phố của hòa bình và tôn giáo".
Truyền chức cho những người có vợ ?
"Giáo Hội Công Giáo có các linh mục có vợ, đúng không ? Các tín hữu Công Giáo Hy Lạp, và coptes, đúng không ? Đúng là có. Trong các cộng đoàn theo nghi thức Đông Phương, có các linh mục có vợ bởi vì chế độ độc thân không phải là một tín lý của đức tin. Đó là một quy tắc sống mà tôi rất ưa chuộng và tôi tin rằng đó là một sự cống hiến cho Giáo Hội. Vì không phải là một tín điều của đức tin, cánh cửa luôn mở, nhưng hiện nay chúng tôi không nói đến việc này như một chương trình nghị sự. Ít là đến lúc này, chúng tôi có những sự việc quan trọng hơn phải làm. Chúng tôi đã không nói về chuyện này với đức giáo chủ Bartholomaios bởi vì đó là một đề tài thứ yếu của người Chính Thống Giáo. Chúng tôi đã nói đến hiệp nhất và hiệp nhất được thực hiện trên đường, khi đang đi, đó là một hành trình. Không thể thực hiện hiệp nhất trong một đại hội thần học và ngài đã nói với tôi điều mà tôi cũng đã biết, và rất chính xác : Đức giáo chủ Athénagoras đã nói với ĐGH Phaolô VI rằng : "Chúng ta hãy bình thản ở cùng với nhau và chúng ta để tất cả các nhà thần học ở cùng với nhau trên một ốc đảo để họ thảo luận với nhau, và chúng ta bước tới trong đời". Thật vậy, đức Bartholomaios đã nói với tôi chuyện này trong những ngày qua. Cùng nhau bước tới, cùng nhau đi đường, cùng nhau làm việc về mọi sự mà chúng tôi có thể cùng làm. Giúp đỡ lẫn nhau.
"Thí dụ, đối với các cộng đoàn ở Rôma hay trong nhiều thành phố, có nhiều người theo chính thống giáơ sử dụng các nhà thờ Công Giáo, vào giờ giấc khác nhau, như một sự giúp đỡ, để cùng bước đi. Chúng tôi cũng đã nêu lên khả năng làm chuyện gì trong công đồng toàn chính thống giáo về ngày cử hành lễ Phục Sinh. Bởi vì cũng hơi buồn cười : "Này anh hãy nói cho tôi biết Đức Kitô của anh, Người đã sống lại khi nào vậy ? Tuần sau. Ồ, Chúa của tôi đã sống lại vào tuần trước rồi". Ngày cử hành lễ Phục Sinh là một dấu hiệu hiệp nhất. Với đức Bartholomaios, chúng tôi nói chuyện như hai người anh em, chúng tôi rất ngưỡng mộ nhau. Chúng tôi đã kể cho nhau nghe những khó khăn của việc cai quản Giáo Hội của chúng tôi. Và rồi chúng tôi đã nói nhiều về môi trường sinh thái. Ngài rất bận tâm về vấn đề này, tôi cũng vậy, và chúng tôi đã nói sẽ cùng tiến hành một công trình chung về vấn đề này".
Các chuyến tông du Á Châu và các cuộc bách hại
Hai chuyến tông du Á Châu đang được chuẩn bị : chuyến đi Nam Hàn để gặp gỡ giới trẻ Á Châu và sau đó, vào tháng 01, một chuyến tông du hai ngày tới Sri Lanka và sau đó là Philíppin trong vùng đã bị bão lốc. Vấn đề không có tự do hành đạo không chỉ liên quan đến một số quốc gia Á Châu, đúng là có một số quốc gia, nhưng cũng xẩy ra ở những quốc gia khác trên thế giới. Tự do tôn giáo là một điều mà tất cả các quốc gia không có. Một số nước có một sự kiểm soát ít nhiều dễ dãi, bình thản, một số nước khác có những biện pháp, cuối cùng dẫn đến đích thực một sự bách hại các tín đồ. Ngày nay cũng có những người tử vì đạo, những người Kitô hữu tử vì đạo Công Giáo và không Công Giáo, nhưng tử vì đạo. Ở một số nơi, vào thời điểm ngày hôm nay, không thể đeo cây Thánh Giá, hay có một cuốn Thánh Kinh, không được dạy giáo lý cho trẻ em ! Tôi tin và tôi không lầm rằng, ở thời đại của chúng ta có nhiều người tử vì đạo, nhiều hơn cả thời sơ khai của Giáo Hội.
"Chúng ta phải lại gần, trong nhiều trường hợp, với nhiều thận trọng, để giúp đỡ họ. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều cho những Giáo Hội đang chịu đau khổ. Đau khổ biết bao. Và rồi các giám mục, Tòa Thánh, kín đáo hoạt động để giúp đỡ các quốc gia này và giúp các Kitô hữu ở những nước đó, nhưng đây không phải là một chuyện dễ. Tôi đưa ra một thí dụ : trong một quốc gia, cấm không được tập trung cầu nguyện. Cấm ! Nhưng các Kitô hữu sinh sống ở đó lại muốn cử hành Thánh Lễ, và có một ông kia, ông lao động như một công nhân nhưng ông là linh mục, và ông tới đó, tới cái bàn, và họ làm bộ như cùng nhau uống trà và họ đã dâng Thánh Lễ. Nếu công an tới, họ dấu kinh sách và làm như họ đang uống trà. Điều này xẩy ra vào thời đại của chúng ta. Thật không dễ".
Các Đức Cựu Giáo Hoàng
"Tôi sẽ làm điều mà Chúa truyền cho tôi phải làm : cầu nguyện, đi tìm Thánh Ý Thiên Chúa. Như tôi tin rằng ĐGH Biển Đức XVI không phải là một trường hợp duy nhất. Đã xẩy ra là ngài không còn sức lực, và một cách trung thực, như một người ngay thẳng, khiêm nhường, ngài đã lấy quyết định. Tôi nghĩ ngài là một thiết chế. Trước đây 70 năm các cựu giám mục gần như không hề có, và ngày nay có nhiều vị. Như vậy với các Đức Cựu Giáo Hoàng thì như thế nào ? Tôi nghĩ, chúng ta phải coi ngài như một thiết chế : ngài đã mở một cánh cửa, cánh cửa của các cựu giáo hoàng. Nếu sẽ có những vị khác hay không, chỉ có Chúa biết, nhưng cánh cửa này đã được mở ra rồi. Tôi nghĩ rằng một vị giám mục Rôma, một vị giáo hoàng cảm thấy sức khỏe suy giảm – vì ngày nay, người ta sống lâu hơn – cũng phải tự đặt cho mình những câu hỏi giống như ĐGH Biển Đức XVI".
Không có phép lạ cho ĐGH Piô XII
"Án phong thánh ĐGH Piô XII đã được mở ra và tôi được thông báo là chưa có một phép lạ nào. Bao lâu không có phép lạ, không có tiến triển, phải không ? Án phong thánh đang bị dừng lại. Chúng ta phải chờ thực tế : án này sẽ tiến triển ra sao để rồi nghĩ tới việc phải đưa ra một quyết định. Nhưng sự thật chính là đã không có phép lạ nào và ít nhất cần phải có một phép lạ để tuyên phong chân phước. Án phong chân phước của ĐGH Piô XII chính là như thế đó. Và tôi không thể nghĩ rằng "tôi sẽ tuyên phong chân phước cho ngài", vì tòa xét án rất chậm .
Gia đình và những người ly dị tái hôn
"Tôi bắt đầu bằng một sự làm sáng tỏ về cuộc gặp gỡ này ở Vatican. Sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện. Sẽ không phải để làm một cuộc trung gian hòa giải hay để tìm các giải pháp. Không, chúng ta sẽ chỉ hội họp để cầu nguyện. Và rồi sau đó, mỗi người sẽ trở về nhà. Tôi nghĩ rằng cầu nguyện là quan trọng. Cùng nhau cầu nguyện. Không bàn cãi chuyện gì khác, điều này có ích. Có lẽ tôi đã trình bầy không rõ để nói điều đó sẽ diễn tiến như thế nào. . Sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện. Sẽ có một giáo sĩ Do Thái Giáo, một người Hồi Giáo và tôi. Tôi đã yêu cầu – tôi nghĩ là tôi có thể nói được – Bề Trên Thượng Cấp Đất Thánh tổ chức một chút các việc trên bình diện thực tiễn.
"Và rồi, thứ nhì, cảm ơn vì vấn đề những người ly dị. Thượng Hội Đồng sẽ là về gia đình, về vấn đề của gia đình, về những sự quý giá của gia đình, về tình trạng hiện tại của gia đình. Tham luận sơ khởi của ĐHY Kasper có 5 chương, trong dó có 4 chương về gia đình, những cái đẹp của gia đình, các nền móng thần học, và một số vấn đề gia đình. Và rồi, trong chương 5, vấn đề mục vụ của những vụ ly hôn, những trường hợp hôn nhân bất thành, những vụ ly dị, và trong vấn đề này gắn liền vấn đề rước Lễ.
"Và tôi không thích có nhiều người, kể cả Giáo Hội, các linh mục, nói "ồ, thương hội đồng, để cho những người ly dị tái hôn được rước Lễ". Và họ đã tới đó. Tôi đã thấy tất cả cũng thu gọn lại thành một biện luận. Không, chuyện này rộng lớn hơn. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều biết, gia đình đang trong cơn khủng hoảng. Trong cơn khủng hoảng toàn cầu. Người trẻ không muốn kết hôn, hay họ không làm, hay họ chỉ sống chung. Hôn phối đang trong khủng hoảng, gia đình cũng thế. Và tôi không muốn chúng ta rơi vào cái biện luận đó; người ta có thể, hay không có thể. Về điều này, tôi cảm ơn quý vị lần nữa đã đặt câu hỏi, bởi vì nó cho tôi cơ hội làm sáng tỏ tất cả chuyện này. Vấn đề mục vụ gia đình rất là rộng lớn.
"Và cần phải xem xét từng trường hợp. ĐGH Biển Đức XVI đã nói đến ba lần một chuyện về những người ly dị tái hôn khiến tôi được giúp đỡ nhiều. Một lần trong vùng Thượng Adige, một lần ở Milan và trong hội nghị Hồng Y công khai lần chót : xem xét các trình tự tuyên bố hôn phối bất thành bởi vì có nhiều trường hợp có thể được giải quyết, hay đối với một số người, vấn đề là phải xem xét lòng tin mà người đó có lúc làm hôn phối, và làm rõ rằng những người ly dị không phải là bị vạ tuyệt thông và rất thường bị đối xử như những người bị vạ tuyệt thông. Đây là một vấn đề nghiêm trọng. Đó là điều liên quan đến biện luận của vấn đề này.
"Thượng hội đồng sẽ bàn về gia đình, những thứ quý giá, những vấn đề của gia đình, những giải pháp, sự bất thành hôn phối, tất cả những điều này và cũng sẽ có vấn đề này [ly dị tái hôn] nhưng trong tổng thể.
"Và bây giờ tôi muốn trình bầy, tại sao có thượng hội đồng về gia đình. Đây đã là một trải nghiệm thiêng liêng rất mạnh mẽ đối với tôi. Đức cha Eterovic, khi đó là thư ký thượng hội đồng, đã đến gặp tôi trong tháng thứ nhì triều đại của tôi với 3 chủ đề mà hội đồng hậu thượng hội đồng đề nghị cho thượng hội đồng sắp tới. Đề tài thứ nhất rất mạnh mẽ và tốt lành : "Đưa Chúa Giêsu Kitô đến cho con người trong thời đại ngày hôm nay". Đây là tiêu đề và nó tiếp nối thượng hội đồng về Phúc Âm hóa. Tôi đã trả lời thuận, và chúng tôi đã nói về sự cải tổ phương pháp… Và vào phút chót, tôi đã nói, hãy thêm vào một chút gì : "Đưa Chúa Giêsu Kitô đến cho con người và gia đình trong thời đại ngày hôm nay"; chuyện này, được. Rồi tôi đã tới dự phiên họp hậu thượng hội đồng đầu tiên và thấy rằng ý niệm đưa Chúa Giêsu đến cho gia đình tiến hành quá chậm, cũng như thượng hội đồng về gia đình này. Và vô hình chung, ủy ban hậu thưọng hội đồng cuối cùng cũng nói đến gia đình. Tôi thì tôi xác tín là chính Thần Khí của Chúa đã dẫn dắt chúng tôi trong việc lực chọn chủ đề. Tôi chắc chắn như vậy. Bởi vì ngày hôm nay, thật sự, gia đình đang rất cần đến sự hỗ trợ mục vụ.
Cải tổ giáo triều Rôma
"Chúng ta đang ở một điểm hay đây. Tôi không còn nhớ rõ ngày, nhưng một tháng sau cuộc tuyển cử [giáo hoàng], Hội Đồng 8 vị Hồng Y đã được cắt cử. Rồi vào đầu tháng 7, chúng tôi đã nhóm họp lần đầu. Từ lúc đó, chúng tôi làm việc. Hội Đồng làm việc gì ? Hội Đồng nghiên cứu toàn bộ hiến chương Pastor Bonus và Giáo Triều Rôma. Hội Đồng đã tham khảo mọi người, toàn thể Giáo Triều. Và Hội Đồng đã bắt đầu nghiên cứu một số chuyện, chẳng hạn như : có thể làm chuyện này cách này hay cách khác, hợp nhất một số các ban bộ để làm nhẹ bớt cho tổ chức.
"Một trong những điểm khóa là kinh tế, và bộ kinh tế sẽ giúp đỡ nhiều. Bộ phải làm việc với Phủ Quốc vụ Khanh, vì đó là một nơi kết hợp mọi chuyện. Bây giờ, chúng tôi sẽ có 4 ngày trong tháng 7 để Ủy Ban làm việc, và sau đó vào cuối tháng 9 lại có 4 ngày nữa. Chúng tôi làm việc, làm việc nhiều. Kết quả chưa thể thấy được tất cả. Nhưng phần kinh tế là phần sẽ được đưa ra đầu tiên bởi vì đã có một số vấn đề mà báo chí nói nhiều và chúng tôi phải nghiên cứu.
"Các trở ngại là những trở ngại bình thường của mọi dự án. Nghiên cứu hành trình. Thuyết phục là rất quan trọng : một công việc thuyết phục, giúp đỡ. Có người không thấy rõ ở đây, nhưng trong mọi cuộc cải tổ, có những chuyện này. Tôi hài lòng. Thật sự, tôi thấy hài lòng. Chúng tôi đã làm việc nhiều và ủy ban mới này giúp đỡ chúng tôi rất nhiều".
Mạc Khải phỏng dịch
(27 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/pedophilie-chez-un-pretre-comme-une-messe-noire

 

"Tôi muốn mang đến một lời hy vọng, nhưng tôi cũng đã nhận lại được lời đó".
Bài giáo lý ngày 28 tháng 5 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 28/5/2014 (Zenit.org
Với chuyến hành hương này, tôi đã muốn mang đến một lời hy vọng, nhưng tôi cũng đã nhận được lời đó đáp lại ! Tôi đã nhận được nó từ các anh chị em đang hy vọng "mặc dù không còn gì để hy vọng" (Rm 4, 18), qua biết bao nhiêu là đau khổ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tâm sự vào ngày hôm sau cuộc hành hương nơi Đất Thánh (24-26/5)
Cắt ngang chu kỳ bài giáo lý về các ơn của Chúa Thánh Thần, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra bản tổng kết chuyến tông du của ngài, trong buổi triều kiến chung sáng thứ tư 28/5/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Ngài đã nhấn mạnh những mục tiêu của cuộc hành hương này, "một tặng phẩm lớn cho Hội Thánh" : đầu tiên là để "kỷ niệm 50 năm cuộc hội ngộ lịch sử giữa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI với giáo chủ Athénagoras", bằng một cuộc gặp gỡ với giáo chủ Martholomaios, "đỉnh điểm của cuộc viếng thăm".
Biểu lộ sự cay đắng của mình vì "những chia rẽ còn đang hiện hữu giữa các môn đệ của Đức Kitô", Đức Giáo Hoàng đã xin tha thứ : "một lần nữa, cũng như các Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm đã làm, tôi xin tha thứ vì những gì chúng ta đã làm để tạo thuận lợi cho sự chia rẽ này và tôi cầu xin Chúa Thánh Thần phù giúp chúng ta chữa lành những vết thường mà chúng ta đã gây ra cho các anh em khác".
Một mục đích khác của cuộc hành hương này là khuyến khích trong vùng này hành trình dẫn đến hòa bình", ngài nói tiếp : "Để vậy, tôi đã mời tổng thống Do Thái và tổng thống Palestina, cả hai nhân vật của hòa bình và là những người xây dựng hòa bình, tới Vatican cầu nguyện chung cùng với tôi cho hòa bình. Và, tôi xin anh chị em vui lòng đừng để chúng tôi ở với nhau một mình. Các anh chị em, xin hãy cầu nguyện, cầu nguyện nhiều để Chúa ban cho chúng ta hòa bình trong vùng Đất được chúc phúc này".
Đức Giáo Hoàng cũng đã kêu gọi các Kitô hữu của Đất Thánh "hãy để được 'xức dầu', tấm lòng cởi mở và ngoan ngoãn, bởi Chúa Thánh Thần, để luôn có khả năng có những cử chỉ hòa bình, huynh đệ và hòa giải" vì "hòa bình phải được xây dựng bằng thủ công, mỗi ngày".
Sau cùng, ngài đã ca tụng "lòng đại lượng của dân chúng Jordania trong việc đón tiếp người tỵ nạn", yêu cầu "tất cả các định chế quốc tế giúp đỡ dân này trong công nghiệp tiếp nhận".
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày vừa qua, cũng như anh chị em biết đó, tôi đã thực hiện một chuyến hành hương Đất Thánh. Điều này đã là một ơn trọng đại cho Giáo Hội và tôi tạ ơn Thiên Chúa về ơn này. Người đã dẫn dắt tôi trên vùng Đất được chúc phúc này là nơi đã chứng kiến sự hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu và là nơi đã được kiểm chứng các biến cố nền tảng của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Tôi muốn nhắc lại lời tri ân chân thành của tôi tới Đức Giáo chủ Fouad Twal, tới các Đức Giám Mục thuộc các nghi thức Kitô giáo, các linh mục, tới các tu sĩ Phanxicô tại Tỉnh Dòng Đất Thánh. Các tu sĩ dòng Phanxicô này rất giỏi ! Họ đã hoàn tất tốt đẹp mọi việc ! Lòng biết ơn của tôi cũng được gửi đến các quan chức của Jordania, Do Thái và Palestin, đã đón tiếp tôi rất lịch sự, tôi có thể nói là thân tình, cũng như tới tất cả mọi người đã cộng tác trong việc thực hiện chuyến viếng thăm này.
1. Mục đích chính của chuyến hành hương này là để kỷ niệm 50 năm cuộc hội ngộ lịch sử giữa ĐGH Phaolô VI và đức giáo chủ Athénagoras. Đó là lần đầu tiên mà một người Kế Vị thánh Phêrô đặt chân tới Đất Thánh : ĐGH Phaolô VI, như thế đã mở màn, trong khi Công Đồng Vaticanô II đang diễn ra, những cuộc tông du ra ngoài lãnh thổ nước Ý của các Giáo Hoàng thời hiện đại. Cử chỉ tiên tri này của giám mục Rôma và của giáo chủ Constantinople đã trồng một cột cây số trên con đường, khó khăn như đầy hứa hẹn, của sự hiệp nhất giữa tất cả mọi Kitô hữu, từ đó đã có những bước quan trọng.
Chính vì thế mà cuộc hội ngộ của tôi với Đức Bartholomaios, người anh em yêu quý trong Đức Kitô, đã tượng trưng thời khắc đỉnh cao của cuộc thăm viếng. Cùng nhau, chúng tôi đã cầu nguyện trước mộ Chúa Giêsu và đã hiện diện cùng chúng tôi, có đức giáo chủ chính thống giáo hy lạp ở Giêrusalem, Théophile III, và đức giáo chủ armenia, Nourhan, cũng như các đức tổng giám mục và giám mục của các Giáo Hội và cộng đoàn, các quan chức và nhiều tín hữu. Ở nơi đó, nơi vang lên lời thông báo Phục Sinh, chúng tôi đã cảm nhận tất cả nỗi cay đắng và sự đau buồn vì những chia rẽ đang còn hiện hữu giữa các môn đệ của Đức Kitô; và thực chất, điều này làm đau đớn, đau đớn trong tim. Chúng ta vẫn còn chia rẽ; ở ngay cái nơi đã vang lên thông báo Phục Sinh, nơi Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự sống, chúng ta vẫn còn chia rẽ. Nhưng nhất là, trong việc cử hành này, chất chứa tình huynh đệ với nhau, sự ngưỡng mộ và tôn trọng, chúng tôi đã nghe rõ tiếng gọi của Đấng Mục Tử nhân lành phục sinh là Đấng muốn gom tất cả con chiên của Người thành chung một đoàn; chúng tôi đã cảm thấy ý muốn chữa lành những vết thương còn đang hở miệng mà chúng ta đã gây ra cho các anh em khác. Chúng ta tất cả đều là anh em trong Chúa Kitô, và với đức giáo chủ Bartholomaios, chúng ta là bạn bè, là anh em, và chúng ta đã chia sẻ ý chí cùng đi, sẽ làm tất cả những gì chúng ta có thể làm ngày hôm nay : cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau làm việc cho đàn chiên của Thiên Chúa, tìm kiếm hòa bình, bảo vệ thiên nhiên, tất cả những chuyện đó chúng ta cùng có chung với nhau. Và như các anh em ruột thịt, chúng ta phải tiến lên phía trước.
2. Một mục đích khác của chuyến hành hương này là khuyến khích trong vùng này hành trình dẫn đến hòa bình, vốn vừa là một ơn phúc của Thiên Chúa vừa là một sự tham gia của con người. Tôi đã làm chuyện đó ở Jordania, ở Palestin và ở Do Thái. Và tôi vẫn luôn làm chuyện đó với tư cách là khách hành hương, nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người, khi mang trong tâm hồn một sự thông cảm đối với các con cái của vùng Đất này đang sống từ quá lâu nay với chiến tranh và có quyền được biết đến những ngày thái bình !
Bởi thế cho nên tôi đã kêu gọi các Kitô hữu hãy để cho mình được "xức dầu", con tim rộng mở và ngoan hiền, bởi Chúa Thánh Thần, để luôn có nhiều khả năng hơn nữa mà làm những cử chỉ hòa bình, huynh đệ và hòa giải. Chúa Thánh Thần giúp đảm đương nổi những cách cư xử trong đời sống hàng ngày với những người của các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, và từ đó, trở thành những "người xây dựng" hòa bình. Hòa binh được kiến tạo bằng thủ công ! Không có những nhà máy làm ra hòa bình, không. Hòa bình được xây dựng mỗi ngày, bằng thủ công, và với một con tim rộng mở để cho Ơn Chúa ngự đến. Chính vì thế mà tôi đã hô hào các Kitô hữu hãy để cho mình được "xức dầu".
Tại Jordania, tôi đã cảm ơn các quan chức và nhân dân vì sự tham gia của họ trong việc đón nhận nhiều người tỵ nạn chạy đến từ các vùng có chiến tranh, một sự tham gia nhân đạo xứng đáng và đòi hỏi sự ủng hộ kiên trì của Cộng Đồng quốc tế. Tôi đã ngạc nhiên vì sự rộng lượng của dân chúng Jordania trong sự đón nhận người tỵ nạn, và tất cả những ai trốn chạy chiến tranh trong vùng này. Cầu xin Chúa chúc lành cho dân tộc sãn lòng tiếp đón này, xin Người chúc lành nhiều cho họ ! Và chúng ta phải cầu nguyện để Chúa chúc lành cho sự đón nhận đó và yêu cầu tất cả các cơ chế quốc tế hãy giúp đỡ dân tộc này trong công việc đón nhận mà họ đã thực hiện.
Trong suốt cuộc hành hương ở những nơi khác cũng vậy, tôi đã khuyến khích các nhà cầm quyền liên hệ hãy tiếp tục những nỗ lực của họ để làm giảm bớt những căng thẳng trong vùng Trung Đông, nhất là trong nước Syria đang bị đau đớn, và tiếp tục đi tìm một giải pháp công bằng cho sự xung đột Do Thái-Palestin. Cho chuyện này, tôi đã mời tổng thống Do Thái và tổng thống Palestin, cả hai nhân vật của hòa bình và là những người xây dựng hòa bình, đến Vatican để cùng cầu nguyện với tôi cho hòa bình. Và, tôi xin anh chị em vui lòng, đừng bỏ chúng tôi đơn độc. Anh chị em, hẵy cầu nguyện, cầu nguyện nhiều để Chúa ban cho chúng ta hòa bình trong vùng Đất được chúc phúc đó. Tôi tin tưởng vào lời cầu nguyện của anh chị em. Anh chị em hãy mạnh mẽ, hãy cầu nguyện, trong thời gian đó, hãy cầu nguyện để hòa bình trở lại.
3. Cuộc hành hương Đất Thánh này cũng là cơ hội để củng cố đức tin của các cộng đoàn Kitô hữu đang chịu biết bao đau khổ, và biểu lộ lòng biết ơn của toàn thể Giáo Hội vì sự hiện diện của các Kitô hữu trong vùng này và trong tất cả vùng Trung Đông. Các anh em này là những chứng nhân can trường của hy vọng và bác ái, là "muối và ánh sáng" trên giải đất này. Bằng đời sống đức tin và cầu nguyện của họ, và qua những hoạt động giáo dục và cứu trợ được đánh giá cao của họ, họ đã hành động cho hòa giải và thứ tha, đóng góp vào công ích của xã hội.
Với chuyến hành hương này, vốn đích thực là một ơn phúc của Chúa, tôi đã muốn mang tới một lời hy vọng, nhưng tôi cũng đã nhận được lời đó cho chính mình ! Tôi đã nhận được lời đó từ các anh chị em đang hy vọng "mặc dù không còn gì để hy vọng" (Rm 4, 18), qua biết bao nhiêu là đau khổ, như những đau khổ của những người đã phải chạy trốn khỏi đất nước họ vì chiến tranh, như những đau khổ của những người ở nhiều nơi trên thế giới, bị kỳ thị, bị khinh miệt bởi vì đức tin của họ nơi Chúa Kitô. Chúng ta hãy tiếp tục sát cánh với họ ! Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cho hòa bình ở Đất Thánh và trong toàn vùng Trung Đông. Mong rằng lời cầu nguyện của toàn thể Giáo Hội cũng giúp cho hành trình dẫn đến sự hiệp nhật toàn diện của các Kitô hữu, để mọi người tin vào tình yêu của Thiên Chúa là Đấng, qua Chúa Giêsu Kitô, đã ngự đến ở giữa chúng ta. Và tôi mời gọi tất cả anh chị em, ngay bây giờ, cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Hiệp Nhất các Kitô hữu, Mẹ của tất cả các Kitô hữu : xin Mẹ ban cho chúng ta ơn Hòa Bình, cho toàn thế giới, và xin Mẹ đồng hành với chúng ta trên con đường hiệp nhất.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(28 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/j-ai-voulu-apporter-une-parole-d-esperance-mais-je-l-ai-aussi-recue

 

Trẻ em bị ngược đãi và khai thác :
Một mối nhơ nhuốc trước mặt Thiên Chúa

Thánh Lễ "Noel" ở Bê lem ngày 25 tháng 5 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 25/5/2014 (Zenit.org
Trẻ em là dấu hiệu mang tính "chẩn đoán" để hiểu tình trạng sức khỏe của một gia đình, của môt xã hội, của toàn thế giới", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đánh giá : "Khi các trẻ em được đón nhận, được yêu thương, được bảo vệ trong các quyền của các em, gia đình sẽ lành mạnh, xã hội sẽ tốt hơn, thế giới sẽ nhân bản hơn". Nếu các em bị ngược đãi, đó là một "vết nhơ trước mặt Thiên Chúa"
Vào ngày thứ nhì cuộc hành hương của ngài nơi Đất Thánh, chúa nhật 25/5/2014, Đức Giáo Hoàng đã ghé Palestina, ở Bê-lem. Sau khi gặp gỡ các giới thẩm quyền Palestina, ngài đã tới quảng trường Máng Cỏ, nằm cạnh Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh, nơi ngài cử hành Thánh Lễ vào lúc 11 giờ trưa.
Trong số những người tham dự, có tổng thống Palestina, Mahmoud Abbas, bà Vera Vaboun, thị trưởng thành phố Bê-lem, và hàng trăm người lao động di dân gốc Á châu.
Trong bài giảng của ngài, Đức Giáo Hoàng đã có cả một bài biện hộ cho trẻ em, là những con người "cần được đón tiếp và bảo vệ từ lúc còn trong bụng mẹ" : ngài đã đặc biệt tố cáo "những hoàn cảnh phi nhân đạo", trong đó có rất nhiều trẻ em đang phải sống, "bị khai thác, ngược đãi, đối xử như nô lệ, bị coi như đối tượng của bạo lực và buôn bán bất hợp pháp, bị biệt xứ, phải tỵ nạn, đôi khi bị chết chìm trên biển cả… Chúng ta thấy nhục nhã về những điều này trước mặt Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa đã từng giáng trần làm Trẻ Thơ".
Bài giảng lễ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Bê-lem
"Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" (Lc 2, 12).
Được cử hành Thánh Lễ ở nơi đây là nơi Chúa Giêsu sinh ra, thật là một ơn phúc lớn lao ! Tôi tạ ơn Thiên Chúa và tôi cảm ơn quý vị đã dón tiếp tôi trong chuyến hành hương của tôi : Tổng Thống Mahmoud Abbas và các giới chính quyền khác; Giáo Chủ Fouad Twal, các Đức Giám Mục khác và các Vị Cai Quản của Thánh Địa, các linh mục, các anh chị em tu sĩ và tất cả những ai đã hoạt động để giữ cho sống động đức tin, đức cậy và đức mến trên những vùng đất này; các đoàn đại biểu tín hữu đến từ Gaza, từ Ga-li-lê-a, những di dân từ Á Châu và Phi Châu. Xin cảm ơn vì sự đón tiếp của quý vị.
Chúa Giêsu Hài Đồng, sinh ra ở Bê-lem, là dấu chỉ do Thiên Chúa ban cho cho những ai đang chờ đợi sự cứu độ, và Người vẫn là dấu chỉ muôn đời của sự nhân lành và hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian này. Thiên thần đã nói với các mục đồng : "Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh…".
Ngày hôm nay cũng vậy, trẻ em là một dấu hiệu. Dấu hiệu của hy vọng, dấu hiệu của sự sống, mà cũng là dấu hiệu mang tính "chẩn đoán" để hiểu về tình trạng sức khỏe của một gia đình, của một xã hội, của toàn thế giới. Khi trẻ em được đón nhận; thương yêu, bảo vệ trong các quyền của các em, gia đình sẽ được lành mạng, xã hội sẽ tốt đẹp hơn, thế giới sẽ nhân bản hơn. Chúng ta hãy nghĩ về công trình mà Viện Institut Effetà PaoloVI thực hiện cho các trẻ em câm điếc Palestine : đó là một dấu hiệu cụ thể lòng nhân lành của Thiên Chúa. Đó là dấu hiệu cụ thể là xã hội tốt đẹp hơn. Thiên Chúa cũng nhắc lại cho chúng ta, những con người nam cũng như nữ của thế kỷ 21 : "Đây là dấu chỉ cho anh em", anh chị em hãy tìm hài nhi…
Hài Nhi ở Bê-lem rất mỏng manh, như tất cả mọi trẻ sơ sinh. Người không biết nói, và mặc dù Người là Lời nhập thể, đến để thay đổi tâm hồn và cuộc sống của con người. Hài nhi này, như mọi hài nhi, cũng yếu đuối và cần được giúp đỡ và che chở. Ngày nay cũng vậy, trẻ em cần được đón nhận và bảo vệ, ngay từ lúc ở trong lòng mẹ.
Khốn nỗi, trong thế giới chúng ta đã phát triển các kỹ thuật tinh vi nhất, mà còn nhiều trẻ em đang ở trong những hoàn cảnh phi nhân, đang phải sống bên lề xã hội, trong những vùng ngoại ô các thành phố lớn hay trong những vùng thôn quê hẻo lánh. Nhiều trẻ em, ngày hôm nay còn bị khai thác, ngược đãi, bắt làm nô lệ, đối tượng của bạo lực và buôn bán bất hợp pháp. Quá nhiều các trẻ em ngày nay đã bị biệt xứ, phải tỵ nạn, đôi khi bị chết chìm trên biển cả, đặc biệt là trên biển Địa Trung Hải. Bởi tất cả những điều đó, ngày nay chúng ta cảm thấy nhơ nhuốc trước mặt Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa đã giáng thế làm Trẻ Thơ.
Và chúng ta tự hỏi : chúng ta là ai trước mặt Chúa Giêsu Hài Đồng ? Chúng ta là ai trước mặt các trẻ em của ngày hôm nay ? Phải chăng chúng ta giống như Đức Maria và thánh Giuse, đã đón nhận Chúa Giêsu và chăm sóc cho Người với tình yêu của người mẹ và người cha ? Hay là chúng ta cũng như Hê-rô-đê, muốn thủ tiêu Người ? Phải chăng chúng ta cũng như các mục đồng, vội vàng chạy đến quỳ gối thờ lậy Người và dâng lên Người sự hiện diện khiêm nhường của họ ? Hay là chúng ta thờ ơ vô cảm ? Phải chăng chúng ta có thể là những kẻ ba hoa và những người đạo cao đức trọng, những kẻ khai thác hình ảnh cảc trẻ em nghèo nhằm mục đích vụ lợi ? Phải chăng chúng ta có khả năng ở bên cạnh các em, "mất thi giờ" vì các em ? Chúng ta có biết lắng nghe các em, bảo vệ các em, cầu nguyện cho các em và với các em không ? Hay là chúng ta lại hờ hững với các em, để chăm lo cho ích lợi cá nhân của chúng ta ?
"Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh …". Có lẽ đứa trẻ này đang khóc ! Em khóc vì em đói, vì em lạnh, vì em muốn được ẵm bồng… Ngày hôm nay cũng thế, trẻ em vẫn khóc, các em khóc nhiều, và tiếng khóc của các em lay động chúng ta. Trong một thế giới, mỗi ngày thải loại hàng tấn thực phẩm và thuốc men, đã có những trẻ em đang khóc vô vọng vì đói và vì những bệnh rất dễ chữa lành.
Trong một thời đại mà người ta tuyên bố bảo vệ trẻ vị thành niên, mà buôn bán rất nhiều vũ khí để cuối cùng cũng rơi vào tay các lính trẻ con; mà buôn bán bao sản phẩm do những em nhỏ lao động nô lệ. Tiếng khóc của các em bị bóp nghẹn, tiếng khóc của những trẻ em này đã bị bóp nghẹn : các em phải chiến đấu, các em phải lao động, các em không thể nào khóc được ! Nhưng các bà mẹ của các em, bà Rachel của ngày hôm nay, đã khóc hộ các em : các bà khóc con cái họ, và không chịu người ta an ủi (x. Mt 2, 18).
"Đây là dấu hiệu cho anh em". Chúa Giêsu Hài Đồng sính ra ở Bê-lem, mỗi trẻ em được sinh ra và lớn lên ở mỗi phần đất trên thế giới, là một dấu hiệu mang tính "chẩn đoán" giúp cho chúng ta kiểm tra tình hình sức khỏe của gia đình chúng ta, của cộng đoàn chúng ta, của đất nước chúng ta. Từ sự chẩn đoán thẳng thắn và lương thiện này, có thể toát lên một cuộc sống, nơi mà các quan hệ không còn là tranh chấp, đàn áp, "tiêu thụ", mà là những quan hệ anh em, tha thứ và hòa giải, chia sẻ và yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu,
Mẹ đã đón nhận, xin dậy cho chúng con biết đón nhận;
Mẹ đã thờ lậy, xin dậy cho chúng con biết thờ lậy;
Mẹ đã đi theo, xin dậy cho chúng con biết đi theo. Amen !
Mạc Khải phỏng dịch
(25 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-enfants-maltraites-et-exploites-une-honte-devant-dieu

 

Đức Thánh Cha Phanxicô dự định đi Ga-li-lê-a, tới Trung Tâm cho gia đình
Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng tại Bê-lem 25 tháng 5 năm 2014 (toàn văn)

Rôma – 25/5/2014 (Zenit.org
Khi chiêm ngắm Thánh Gia tại đây, Bê-lem, tôi tự nhiên nghĩ đến Nazareth, nơi tôi hy vọng có thể tới được, nếu Chúa muốn, trong một dịp khác. Từ nơi đây, tôi ôm hôn các tín hữu đang sinh sống tại Ga-li-lê-a và tôi khuyến khích thực hiện ở Nazareth một Trung Tâm Quốc Tế cho Gia Đình", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố như vậy khi đọc kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng trưa chúa nhật 25/5/2014, tại Bê-lem.
Đức Giáo Hoàng đã cử hành thánh lể chúa nhật, và sau đó là đọc kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, trên quảng trường Máng Cỏ, nằm sát cạnh Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh, vào ngày thú nhì của cuộc hành hương Thánh Địa của ngài (kéo dài từ ngày 24 đến 26/5/2014).
Khi thông báo dự án tông du này, Đức Giáo Hoàng trả lời những phản đối của người Công Giáo ở Ga-li-lê-a mong muốn ngài ghé chỗ họ và cho rằng cuộc tông du của ngài quá ngắn ; ĐGH Biển Đức XVI và ĐGH Gioan Phaolô II trước đây đều đã ghé Ga-li-lê-a. Nhưng mô hình chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, là chuyến tông du của ĐGH Phaolô VI, cũng chỉ trong 3 ngày. Và biết đâu lời ám chỉ Trung Tâm cho Gia Đình lại không báo trước một sáng kiến, có liên quan đến hai Công Nghị về gia đình vào tháng 10 năm 2014 và 2015 sắp tới đây ?
Sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Giáo Hoàng đã mời tổng thống Palestine Mahmoud Abbas và tổng thống Do Thái Shimon Peres cùng cất lên một lời cầu nguyện chung "xin ban ơn hòa bình" : "Tôi xin hiến nhà của tôi ở Vatican để đón tiếp cuộc hội ngộ nguyện cầu này", ĐGH đã tuyên bố.
Ngài cũng đã phó thác Thánh Địa cho Đức Trinh Nữ Maria, để cho "tất cả những ai cư ngụ ở đây được sống trong công lý, trong hòa bình và trong tình huynh đệ". "Chúng ta hãy phó thác số phận loài người cho Đức Trinh Nữ, để thế giới được mở ra với những chân trời mới và đầy hứa hẹn tình huynh đệ, liên đới và hòa bình", Đức Giáo Hoàng đã kết luận.
AB
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Ở nơi đây, đã sinh ra Vua Hòa Bình, tôi muốn gửi lời mời đến Quý Vị, Tổng Thống Mahmoud Abbas, và Tổng Thống Shimon Peres, để cùng nhau dâng lên một lời cầu nguyện sốt sắng khẩn xin Thiên Chúa ban ơn hòa bình. Tôi xin hiến nhà của tôi ở Vatican để đón tiếp cuộc hội ngộ cầu nguyện đó.
Tất cả chúng ta đều mong muốn hòa bình; nhiều người xây dựng nó hàng ngày bằng những cử chỉ nhỏ; nhiều người đã khổ sở và kiên nhẫn chịu đựng những nỗ lực của nhiều sáng kiến để xây dựng nó. Và tất cả - đặc biệt là những người được đặt để vào việc phục vụ dân chúng của mình – chúng ta có bổn phận trở thành những khí cụ và những người thợ xây dựng hòa bình, trước hết bằng cách cầu nguyện.
Xây dựng hòa bình thật là khó khăn, nhưng sống mà không có hòa binh thì thật là đau khổ. Tất cả mọi người, nam cũng như nữ trên Trái Đất này và trên toàn thế giới yêu cầu chúng ta mang đến trước Nhan Thánh Chúa khát vọng hòa bình mãnh liệt của họ.
Trong lúc chúng ta sắp bế mạc thánh lễ này, chúng ta hãy hướng tâm tư chúng ta lên Rất Thánh Đức Mẹ Maria. Chính nơi đây Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu, Con Mẹ. Đức Trinh Nữ là đấng, hơn ai hết, đã nhìn ngắm Thiên Chúa trong dung nhan con người của Chúa Giêsu. Được Thánh Giuse giúp đỡ, Mẹ đã bọc Chúa trong tã lót và đã đặt Người trong máng cỏ.
Chúng ta hãy phó thác cho Đức Mẹ vùng đất này và tất cả những ai cư ngụ nơi đây, để cho họ được sống trong công lý, trong hòa bình và trong tình huynh đệ. Chúng ta cũng phó thác cho Mẹ những khách hành hương đã đến đây uống nước nơi nguồn mạch của đức tin Kitô giáo – có nhiều người đã có mặt trong Thánh Lễ này. Họ rất đông.
Lậy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương những người trẻ và những người lớn tuổi. Xin Mẹ đoái thương tất cả những ai đã mất đức tin và niềm hy vọng; xin Mẹ an ủi những người bệnh hoạn, những người tù tội và tất cả những ai đang chịu đau khổ; xin Mẹ hỗ trợ các Mục Tử và tất cả Cộng Đoàn các tín hữu, để họ trở thành "muối và ánh sáng" trên vùng đất được chúc phúc này; xin Mẹ hỗ trợ các công trình giáo dục, đặc biệt là Đại Học Bê-lem.
Khi chiêm ngắm Thánh Gia tại đây, Bê-lem, tôi tự nhiên nghĩ đến Nazareth, nơi tôi hy vọng có thể tới được, nếu Chúa muốn, trong một dịp khác. Từ nơi đây, tôi ôm hôn các tính hữu đang sinh sống tại Ga-li-lê-a và tôi khuyến khích sự thực hiện ở Nazareth một Trung Tâm Quốc Tế cho Gia Đình.
Chúng ta hãy phó thác số phận loài người cho Đức Trinh Nữ, để thế giới được mở ra với những chân trời mới và đầy hứa hẹn tình huynh đệ, liên đới và hòa bình
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch
(25 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-pape-francois-projette-de-se-rendre-en-galilee-au-centre-pour-la-famille

Hòa Bình không mua được mà phải xây dựng
Thánh Lễ tại sân vận động thủ đô Amman của Jordania (toàn văn)

 

Rôma – 24/5/2014
(Zenit.org
Hòa Bình không thể bán và cũng không thể mua được : nó là một tặng phẩm để nhận lấy trong sự kiên nhẫn và để xây dựng bằng phương thức "thủ công" bởi những cử chỉ lớn, nhỏ có liên quan đến đời sống thường nhật của chúng ta", Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố hôm 24/5/2014 vừa qua tại Jordania.
Vào ngày đầu tiên cuộc hành hương Đất Thánh của ngài, Đức Giáo Hoàng đã cử hành một Thánh Lễ trước hàng chục ngàn người trong sân vận động của thủ đô Amman. Ngài đã tới đây bằng chiếc xe đặc biệt của Gioá Hoàng sau khi gặp gỡ nhà cầm quyền nước Jordania tại cung điện Nhà Vua.
Nguồn tin Tòa Thánh cho biết, trong Thánh Lễ, được một ca đoàn đầy nhiệt tình hát lễ dưới bầu trời nắng đẹp, đã có 1400 thiếu nhi Chịu Lễ lần đầu.
"Sự đa dạng về con người và tư tưởng không được tạo ra sự khước từ hay trở ngại, bởi vì sự đa dạng luôn là một sự phong phú hóa", Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh trong bài giảng của ngài.
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, "con đường hòa bình được củng cố nếu chúng ta công nhận rằng tất cả chúng ta đều có cùng một giòng máu và đều là thành viên của nhân loại" nhưng cũng phải có những "cử chỉ khiêm nhường, huynh đệ, thứ tha, hòa giải", "tiền đề và điều kiện cho một nền hòa bình đích thực, bền chắc và lâu dài".
Nền hòa bình này có thể có được với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, ngài lưu ý : "Quả vậy, nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tạo nên sự hài hòa và làm ra nền hòa bình trong những bối cảnh khác nhau và giữa những chủ đề khác nhau".
Đức Thánh Cha cũng đã hướng về những người tỵ nạn tham dự Thánh Lễ : "Từ tấm lòng tôi cũng muốn nói với nhiều người Công Giáo tỵ nạn đến từ Palestina, từ Syria và từ Irak : anh chị em hãy mang đến cho các gia đình và các cộng đoàn của anh chị em lời chào mưng và sự thân cận của tôi"
A.K.
Bài giảng lễ của Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong bài Phúc Âm, chúng ta đã nghe lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ : "Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến anh em luôn mãi" (Ga 14, 16). Đấng Bảo Trợ đầu tiên là chính Chúa Giêsu; "Đấng khác" là Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đang ở đây, không xa với nơi mà Chúa Thánh Thần đã ngự xuống với quyền năng trên Đức Giêsu Nazareth, sau khi ông Gioan đã làm phép Rửa cho Người trên sông Gio-đan (x. Mt 3, 16). Bài Phúc Âm chúa nhật này, cũng như địa điểm này, nơi nhờ ơn Thiên Chúa, tôi là khách hành hương, mời gọi chúng ta chiêm ngắm về Chúa Thánh Thần, về điều Người đã làm trong Đức Kitô và nơi chúng ta, và chúng ta có thể tóm lược như sau : Chúa Thánh Thần đã làm ba việc : Người chuẩn bị, Người xức dầu, Người sai phái.
Vào lúc chịu phép Rửa, Chúa Thánh Thần đã ngự trên Chúa Giêsu để chuẩn bị Người cho sứ mạng cứu độ; sứ mạng được đánh dấu bằng phong cách của người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền dịu, sẵn sàng chia sẻ và tận hiến cuộc đời mình. Nhưng Chúa Thánh Thần, hiện diện ngay từ lúc ban đầu của lịch sử cứu độ, đã tác động nơi Chúa Giêsu vào lúc Người thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria ở Nazareth, thực hiện biến cố tuyệt diệu của mầu nhiệm Nhập Thể : "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà – thiên thần đã nói với Đức Maria – và bà sẽ sinh một Con Trai, đặt tên là Giêsu" (x. Lc 1, 35).
Sau đó, Chúa Thánh Thần đã tác động trong ông Si-mê-ông và bà An-na vào ngày Chúa Giêsu được dâng tiến trong Đền Thánh (x. Lc 2, 22). Cả hai ông bà đang sống trong trông đợi Đấng Mê-sia; cả hai đều được Chúa Thánh Thần linh báo và khi thấy Hài Nhi, ông Si-mê-ông và bà An-na đã nhận ngay ra, đây là Đấng mà cả dân chúng đang mong chờ. Với thái độ ngôn sứ, hai ông bà đã thể hiện niềm vui được gặp Đấng Cứu Độ và, trong một chiều hướng nào đó, một sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ giữa Đấng Thiên Sai và dân chúng.
Những can thiệp khác của Chúa Thánh Thần nằm trong một động thái hài hòa, của một công trình tình yêu duy nhất của Thiên Chúa. Quả vậy, sứ mạng của Chúa Thánh Thần là tạo nên sự hài hòa và làm ra nền hòa bình trong những bối cảnh khác nhau và giữa những chủ đề khác nhau. Sự đa dạng về con người và tư tưởng không được tạo ra sự khước từ hay trở ngại, bởi vì sự đa dạng luôn là một sự phong phú. Bởi vậy, hôm nay, chúng ta hãy khẩn cầu Chúa Thánh Thần với tấm lòng nhiệt thành, xin Người dọn đường cho hòa bình và hiệp nhất.
Thứ đến, Chúa Thánh Thần xức dầu. Người đã xức dầu trong lòng Chúa Giêsu, và Người xức dầu các môn đệ, để họ có chung những tình cảm với Chúa Giêsu và như thế, có thể đảm nhận trong cuộc đời họ, như thái độ có lợi cho hòa bình và hiệp thông. Với sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, bản tính con người của chúng ta được đánh dấu bởi sự thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô và sự xức dầu này khiến cho chúng ta có khả năng yêu mến anh em mình với chính tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Bởi vậy, cần phải có những cử chỉ khiêm nhường, huynh đệ, thứ tha và hòa giải. Các cử chỉ này là tiền đề và điều kiện cho một nền hòa bình thực chất, bền vững và lâu dài. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha xức dầu cho chúng ta để chúng ta trở nên con cái Người một cách toàn vẹn, luôn mãi phù hợp hơn với Đức Kitô, để tất cả chúng ta cảm thây là anh em với nhau và như thế, xua đi những hận thù và chia rẽ và yêu thương huynh đệ lẫn nhau. Đó là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm : "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14, 15-16).
Và sau cùng, Chúa Thánh Thần sai phái. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, tràn đầy Thần Khí của Chúa Cha. Được xức với cùng một thứ dầu Thánh Linh, chúng ta cũng được sai đi như những sứ giả và chứng nhân của hòa bình.
Hòa bình không thể mua được : nó là một tặng phẩm để đón nhận với sự kiên nhẫn và phải xây dựng bằng phương thức "thủ công" với những cử chỉ lớn, nhỏ có liên quan đến đời sống thường nhật của chúng ta. Con đường hòa bình được củng cố nếu chúng ta công nhận rằng tất cả chúng ta đều có cùng một giòng máu và đều là thành viên của nhân loại; nếu chúng ta không quên rằng chúng ta đều có một Cha duy nhất trên Trời và chúng ta đều là con cái của Người, được tạo dựng theo hình ảnh của Người và giống Người.
Trong tinh thần này, tôi ôm hôn tất cả anh chị em : Đức Giáo Chủ, quý huynh Giám Mục, các linh mục, các anh chị em tận hiến, các tín hữu giáo dân, rất đông các em nhỏ sẽ rước Lễ lần đầu, cũng như phụ huynh các em. Tấm lòng tôi cũng muốn nói với nhiều người Công Giáo tỵ nạn đến từ Palestina, từ Syria và từ Irak : anh chị em hãy mang đến cho các gia đình và các cộng đoàn của anh chị em lời chào hỏi và sự thân cận của tôi
Các bạn thân mến ! Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Giêsu gần sông Gio-đan và đã bắt đầu công trình cứu độ để giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và sự chết. Chúng ta hãy cầu xin Người chuẩn bị tâm hồn chúng ta để gặp gỡ các anh em chúng ta, vượt lên những khác biệt về tư tưởng, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo; chúng ta hãy cầu xin Người xức dầu trên toàn con người chúng ta bằng dầu thương xót có thể chữa lành các thương tích và sai sót, các hiểu lầm và mâu thuẫn; chúng ta hãy cầu xin Người sai phái chúng ta với lòng khiêm nhường và hiền dịu đến các nẻo đường khó khăn, nhưng phong phú, để tìm kiếm hòa bình.
Amen !
(24 mai 2014) © Innovative Media Inc.
Mạc Khải (ghxhcg.com) phỏng dịch

http://www.zenit.org/fr/articles/la-paix-ne-s-achete-pas-elle-se-construit

 

Công trình tạo dựng không phải là tài sản của một thiểu số
Bài giáo lý ngày thứ tư 21 tháng 5 năm 2014 về Ơn Hiểu Biết (toàn văn) 

Rôma – 21/5/2014 (Zenit.org
Ơn hiểu biết", ơn thứ năm của Chúa Thánh Thần, giúp cho người tín hữu không rơi vào sai lầm coi như mình là "sở hữu chủ" của thiên nhiên, Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Ở thời điểm mùa Phục Sinh, sắp tới lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (lễ Ngũ Tuần), Đức Giáo Hoàng đã ban bài giáo lý thứ năm về các ơn của Chúa Thánh Thần, Ơn Hiểu Biết vào trưa thứ tư 21/5/2014 trên quảng trường Thánh Phêrô.
"Công trình tạo dựng không phải là một tài sản mà chúng ta có thể mặc tình áp đặt quy luật của chúng ta; và lại càng không phải là tài sản của một số người, một thiểu số : công trình tạo dựng là môt quà tặng, một tặng phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để chúng ta chăm sóc và sử dụng cho lợi ích của tất cả mọi người, luôn với thật nhiều sự trân trọng và biết ơn", Đức Giáo Hoàng đã cảnh cáo.
Ngài đã nhấn mạnh niềm vui chiêm ngắm vẻ đẹp và sự vĩ đại của công trình tạo dựng : "Tất cả điều này là một nguyên nhân của sự thanh thản và bình an của người Kitô hữu, chứng nhân vui tươi của Thiên Chúa, theo dấu của thánh Phanxicô Assisi và của bao các thánh đã biết chúc tụng và hát lên tình yêu của các ngài qua sự chiêm ngắm các tạo vật".
Sau đây là bản dịch toàn văn của bài giáo lý được Đức Thánh Cha đọc bằng tiếng Ý.
A. B.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Ơn Hiểu Biết
Thân chào quý anh chị em !
Hôm nay, tôi muốn soi sáng một ơn khác của Chúa Thánh Thần, Ơn Hiểu Biết (Kho Học). Khi nói tới khoa học, người ta nghĩ ngay tới khả năng của con người luôn biết đến thực tế chung quanh và khám phá ra những quy luật chi phối thiên nhiên và hoàn vũ. Nhưng khoa học đến từ Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn ở sự hiểu biết của con người : đó là một ơn đặc biệt giúp cho chúng ta nắm được, qua công trình tạo dựng, sự vĩ đại và tình yêu thương của Thiên Chúa và quan hệ sâu đậm của Người với tất cả các tạo vật.
1. Khi chúng ta được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần, mắt chúng ta mở ra với sự chiêm ngắm Thiên Chúa trong cái đẹp của thiên nhiên và trong sự bao la của vũ trụ và thôi thúc chúng ta khám phá ra là vạn vật đều nói cho chúng ta về Người và về tình yêu của Người. Tất cả điều này gợi lên trong chúng ta một sự ngạc nhiên to lớn và một tình cảm biết ơn sâu xa ! Chính cũng là cảm giác mà chúng ta thấy được khi chúng ta chiêm ngưỡng một tác phẩm nghệ thuật hay bất cứ một kỳ quan nào khác là sản phẩm của tinh thần và óc sáng tạo của con người : trước tất cả điều này, Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta ngợi khen Chúa tự đáy lòng và nhìn nhận, nơi tất cả những gì chúng ta có hay làm nên chúng ta, một ơn vô giá của Thiên Chúa và một dấu chỉ tình yêu vô biên của Người đối với chúng ta.
2. Chương thứ nhất sách Sáng Thế, ngay ở đầu Thánh Kinh, cho thấy rõ sự kiện Thiên Chúa hài lòng về công trình tạo dựng của Người, khi nhấn mạnh nhiều lần cái đẹp và cái tốt của vạn vật. Cuối mỗi ngày, Sách chép rằng : "Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp" (St 1, 12. 18. 21. 25) : nếu Thiên Chúa thấy rằng công trình tạo dựng là tốt đẹp, chúng ta cũng phải có thất độ đó và thấy rằng công trình tạo dựng là tốt và đẹp. Đó là ơn Hiểu Biết đã cho ta thấy vẻ đẹp này. Bởi vậy, chúng ta hãy ca ngợi Thiên Chúa, hãy tạ ơn Người đã cho chúng ta bao vẻ đẹp đẽ. Và khi Thiên Chúa đã tạo dựng xong con người, không thấy nói rằng Người "thấy đó là tốt đẹp", mà chỉ thấy chép là một sự "rất tốt đẹp" (St 1, 31). Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta là những gì đẹp nhất, lớn nhất và tốt nhất trong công trình tạo dựng : kể cả các thiên thần cũng ở dưới chúng ta, chúng ta hơn các thiên thần, như chúng ta đã nghe điều này trong sách Thánh Vịnh. Chúa yêu thương chúng ta ! Chúng ta phải tạ ơn Người.
Ơn Hiểu Biết đặt chúng ta trong sự giao hưởng sâu đậm với Đấng Tạo Hóa và cho chúng ta tham gia vào sự trong sáng của nhãn quan và phán xét của Người. Và chính trong viễn cảnh này, chúng ta đạt tới việc ý thức được nơi con người nam, nữ, con người là tuyệt đỉnh của công trình tạo dựng, như là sự khánh thành một dự án tình yêu được ghi sâu trong mỗi người chúng ta và làm cho chúng ta nhận biết nhau là anh chị em của mình.
3. Tất cả điều này là môt lý do của sự thanh thản và bình an nơi người Kitô hữu, chứng nhân vui mừng của Thiên Chúa theo chân thánh Phanxicô Assisi và bao vị thánh khác đã biết chúc tụng và hát lên tình yêu của các ngài qua sự chiêm ngắm các tạo vật. Nhưng đồng thời, Ơn Hiểu Biết giúp chúng ta không rơi vào một số thái độ quá đáng hay sai lầm.
Thái độ thứ nhất là ở chỗ coi mình như là sở hữu chủ của công trình tạo dựng. Thiên nhiên không phải là tài sản mà chúng ta mặc tình áp đặt luật lệ của chúng ta; và càng không phải là tài sản của một số người, một thiểu số : thiên nhiên là một quà tặng, một ân điển tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta chăm sóc và sử dụng cho lợi ích của tất cả mọi người, luôn với nhiều sự trân trọng và biết ơn.
Thái độ sai lầm thứ nhì là ở chổ sa vào cám dỗ dừng lại nơi các tạo vật, coi như chúng có thể cống hiến lời giải đáp cho tất cả mọi mong đợi của chúng ta. Với Ơn Hiểu Biết, Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta không sa ngã vào sai lầm này.
Nhưng tôi muốn trở lại với con đường lầm lạc thứ nhất : áp đặt luật lệ của mình cho công trình tạo dựng thay vì phải chăm sóc nó. Chúng ta phải chăm sóc thiên nhiên bởi vì đó là một quà tặng của Chúa ban cho chúng ta, một tặng phẩm của Thiên Chúa cho chúng ta; chúng ta là những người bảo quản thiên nhiên. Khi chúng ta khai thác thiên nhiên, chúng ta phá hủy dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa. Phá hoại thiên nhiên, tức là nói với Thiên Chúa "cái này tôi không thích". Và điều đó, không tốt : đó là tội lỗi.
Chăm sóc thiên nhiên, chính xác là chăm sóc quà tặng của Thiên Chúa và thưa với Thiên Chúa rằng : "Tạ ơn Chúa, con là người bảo quản thiên nhiên, để làm cho nó phát triển chứ không bao giờ phá hoại quà tặng Chúa đã ban cho con".Đó là thái độ mà chúng ta phải có đối với công trình tạo dựng : chăm sóc bởi vì nếu chúng ta phá hoại công trình tạo dựng, thiên nhiên sẽ tiêu diệt chúng ta ! Anh chị em đừng quen điều này. Có lần, tôi đến một vùng quê và tôi gặp một người đơn sơ, rất yêu hoa và chăm chuốt cho vườn hoa của mình. Người này nói : "Chúng ta phải chăm sóc cho những cái đẹp này mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta; thiên nhiên là để cho chúng ta có thể hưởng thụ; không được lạm dụng nó, mà phải chăm sóc nó, bởi vì Thiên Chúa luôn tha thứ, chúng ta là con người, chúng ta thỉnh thoảng cũng tha thứ, nhưng thiên nhiên không bao giờ tha thứ và nếu ngươi không chăm sóc cho thiên nhiên, thiên nhiên sẽ tiêu diệt ngươi".
Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ và cầu xin Chúa Thánh Thần ban Ơn Hiểu Biết để hiểu rõ rằng công trình tạo dựng là quà tặng tốt đẹp nhất của Thiên Chúa. Người đã tạo ra tất cả mọi sự tốt lành cho tạo vật tốt đẹp hơn hết là con người.
Bản dịch tiếng Pháp : Constance Roques (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(21 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-creation-n-est-pas-la-propiete-d-un-petit-nombre

 

Làm sao giải quyết các tranh chấp trong Giáo Hội
Phát biểu của Đức Thánh Cha trước kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng

 

Rôma – 18/5/2014 (Zenit.org
Không thể giải quyết các vấn đề bằng cách cứ làm như chúng không có !", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chỉ rõ con đường để giải quyết các tranh chấp trong lòng Giáo Hội, trước khi khai kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng trưa hôm chúa nhật 18/5/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô.
"Chính bằng cách mặt đối mặt, cùng thảo luận, và cầu nguyện, mà người ta có thể giải quyết những tranh chấp trong Giáo Hội", Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh khi ngài giảng về sự thiết lập bẩy vị phó tế đầu tiên, được sách Tông Đồ Công Vụ kể lại và đã được đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật này.
Đức Giáo Hoàng cũng đã nói về sự gần gũi với dân chúng Serbia và Bosnia đang trải qua những trận lũ lụt nặng nề.
Ngày cũng đã chào mừng lễ phong chân phước, ngày hôm qua, thử bẩy 17/5/2014, cho Đức Giám Mục Antôn Durcovici, tử đạo dưới thời cộng sản.
Ngài đã chào mừng một nhóm người trẻ đến từ Colombes, trong tỉnh Hauts-de-Seine vùng ngoại ô Paris.
Sau đây là bản dịch toàn văn bài huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô viết bằng tiếng Ý
Huấn Đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trước kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Thân chào quý anh chị em !
Hôm nay, bài dọc trích sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta thấy rằng, ngay cả trong Giáo Hội sơ khởi đã nổi lên những căng thẳng và những bất đồng ý kiến đầu tiên. Trong cuộc sống, có những tranh chấp, vấn đề chính là làm thế nào để đối phó với những tranh chấp này ? Cho tới lúc xẩy ra tranh chấp, sự đoàn kết của Công Giáo Kitô hữu đã được tạo điều kiện thuận lợi bởi sự thống thuộc vào cùng một sắc dân và một nền văn hóa duy nhất là văn hóa Do Thái.
Nhưng khi Kitô giáo, do Thánh Ý của Chúa Giêsu, được phổ biến cho mọi dân tộc, và mở ra trong môi trường văn hóa Hy Lạp, tính thuần nhất đã mất đi và những khó khăn đầu tiên đã xuất hiện.
Lúc đó, sự bất mãn đã len lỏi vào : người ta than phiền, tin đồn lan trải là có sự thiên vị, có những bất bình đẳng trong việc xử lý. Điều này cũng xẩy ra trong các giáo xứ của chúng ta trong ngày hôm nay ! Sự giúp đỡ của cộng đoàn cho những người khó khăn – các góa phụ, cô nhi và người nghèo nói chung – có vẻ như ưu đãi các Kitô hữu gốc Do Thái so với những người khác.
Như thế, trước sự tranh chấp này, các Tông Đồ đã nắm ngay tình thế : các ngài đã triệu tập một cuộc họp mở rộng ra cho cả các môn đệ, tất cả các ngài đã cùng nhau thảo luận vấn đề. Quả vậy, các vấn đề không thể được giải quyết nếu ta cứ coi như là chúng không hiện hữu ! Và cuộc hội họp thẳng thắn giữa các mục tử và các tín hữu khác thật là tốt đẹp. Như vậy, người ta đã đi đến một sự phân chia nhiệm vụ. Các Tông Đồ đã đưa ra một đề nghị được tất cả mọi người đón nhận : các ngài sẽ dành thời gian cho cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa, trong lúc mà 7 người khác, các phó tế, sẽ đảm nhiệm công việc phục vụ bàn ăn cho người nghèo.
Bẩy vị này được lựa chọn không phải vì các ngài giỏi về công việc, nhưng với tư cách là những con người lương thiện và có tiếng tốt, tràn đầy Thần Khí và sự khôn ngoan; và các ngài được thiết lập trong sứ vụ của mình qua nghi thức đặt tay của các Tông Đồ.
Và như thế, sau những bất mãn, những than phiền, những lời đồn thổi thiên vị, bất công trong xử lý, người ta đã đi đến một giải pháp, bằng cách mặt đối mặt, cầu nguyện, và như thế người ta đã giải quyết các tranh chấp. Chính bằng cách mặt đối mặt, bằng cách thảo luận và bằng cách cầu nguyện mà người ta giải quyết những tranh chấp trong Giáo Hội : bằng đối mặt, thảo luận và cầu nguyện, với lòng xác tín rằng những điều ngồi lê đôi mách, những ganh tỵ, những ghen ghét sẽ không bao giờ có thể dẫn chúng ta đến hòa hợp và hòa bình được.
Chính Chúa Thánh Thần là Đấng, ở đây cũng vậy, đã dẫn đến hòa thuận. Và điều này cho chúng ta thấy rõ là khi chúng ta để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt, thì Người sẽ đưa chúng ta đến thuận hòa, đến hợp nhất dến tôn trọng những khác biệt về ơn phúc và tài năng. Anh chị em có hiểu không ? Đừng ngồi lê đôi mách, đừng ganh tỵ, đừng ghen tuông, hiểu chưa ?
Cầu xin Đức Trinh Nữ Maria phù trợ chúng ta ngoan ngoãn theo Chúa Thánh Thần để biết tôn trọng lẫn nhau và luôn hội tụ trong đức tin và đức ái, ngày càng sâu đậm hơn, và giữ cho tâm hồn chúng ta luôn rộng mở đối với những nhu cầu của anh em chúng ta.
Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, hãy vui mừng, Alleluia…
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến,
Các trận lũ lụt trầm trọng đang tàn phá nhiều miền rộng lớn ở vùng Balkans, nhất là ở Serbia và Bosnia. Trong khi phó dâng các nạn nhân các trận thiên tai này cho Chúa, tôi bày tỏ sự gần gũi cá nhân tôi với những người đang phải sống những giờ phút lo sợ và những điều bất hạnh.
Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện Đức Trinh Nữ Maria cho các anh chị em này của chúng ta đang phải đương đầu với những khó khăn to lớn :
Kính mừng Maria đầy ơn phúc…
Đức Giám Mục Antôn Durcovici, tử vì đạo, đã được tuyên phong chân phước ngày hôm qua, tại Iasi, ở Rumania. Là một vị mục tử hăng hái và can trường, ngài đã bị bách hại bởi chế độ cộng sản Rumania và đã bị chế trong tù – ngài bị chết vì đói khát – năm 1951. Với các tín hữu của Iasi và của toàn quốc Rumania, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì tấm gương này.
Tôi chào mừng tất cả anh chị em đến từ Rôma và các khách hành hương : các gia đình, các đoàn giáo xứ, các hiệp hội, các trường học…
Tôi đặc biệt chào mừng các sinh viên các trường Công Giáo của Madrid và Pamplume, những sinh viên đến từ Mêxicô và Colombia, tới từ Pháp và những người trẻ của trường "Nostra Signora della Neve" ở Gênôva và các em nhỏ của Trung Tâm "Volto Santo" ở Bari.
Tôi chào mừng các đoàn đại biểu thành phố Perth (Úc Châu) và Vasto (Ý), kết nghĩa từ 25 năm nay; các tín hữu từ Tombolo, Grezzana, Cerignola, San Biagio, San Fiorano, Parabita, Patù, Bronte, Cassino và Digana; ca đoàn của Brindisi, Câu lạc bộ người già ở Locara, Cộng đoàn Ê-mau của San Benedetto del Tronto, những người trẻ của Lodo và Atri.
Tôi khuyến khích các đoàn thể người thiện nguyện đến đây cho Ngày Bệnh Nhân Ung Thư : tôi cầu nguyện cho anh chị em, cho các bệnh nhân và gia đình. Và xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi !
Tôi chúc anh chị em một ngày chúa nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(18 mai 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/comment-resoudre-les-conflits-dans-l-eglise

 

Ơn Sức Mạnh là thuốc giải của bệnh lười biếng và nản chí
Bài giáo lý thứ Tư về các ơn Chúa Thánh Thần (toàn văn)

 

Rôma – 14/5/2014 (Zenit.org
Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên nên kêu cầu Chúa Thánh Thần và xin Người ban Ơn Sức Mạnh khi chúng ta nản chí hoặc lười biếng.
"Mỗi ngày trong cuộc sống, chúng ta phải mạnh mẽ, chúng ta cần có sức mạnh này để điều khiển cuôc đời chúng ta, gia đình chúng ta và để sống đức tin của chúng ta", Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích trong bài giáo lý ngày thứ tư 14/5/2014 này về ơn thứ tư của Chúa Thánh Thần : Ơn Sức Mạnh.
Đức Thánh Cha đã chỉ ra phương thuốc giải cho bệnh lười biếng và nản lòng : "Chúng ta đôi khi có thể bị cám dỗ để mặc cho mình bị bệnh lười biếng, hay tệ hơn nữa, bệnh nản lòng xâm chiếm, nhất là trước những mệt mỏi và thử thách của cuộc đời. Trong những trường hợp này, chúng ta đừng mất can đảm, mà hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần, để với ơn Sức Mạnh, Người có thể nâng đỡ tâm hồn chúng ta và thông truyền cho cuộc đời chúng ta, theo chân Chúa Giêsu, một sức mạnh và một sự phấn khởi mới" .
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý bằng tiếng Ý của Đức Thánh Cha.
A.B.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô về Ơn Sức Mạnh
Thân chào quý anh chị em !
Trong các bài giáo lý trước đây, chúng ta đã suy nghĩ về 3 ơn đầu tiên của Chúa Thánh Thần : ơn Khôn Ngoan, ơn Trí Tuệ và ơn Soi Sáng. Hôm nay, chúng ta hãy nghĩ đến điều Chúa đã làm : Người luôn đến để nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối và Người thực hiện chuyện này bằng một ơn đặc biệt : ơn Sức Mạnh.
1. Có một dụ ngôn, được Chúa Giêsu kể, Người giúp chúng ta nắm bắt được tầm quan trọng của ơn Này. Một người gieo hạt ra đồng gieo giống; nhưng không phải mọi hạt giống người này gieo xuống đất đều đâm bông kết hạt. Có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất; có hạt rơi trên sỏi đá hay rơi vào bụi gai, có nẩy mầm thì cũng nhanh chóng bị khô cháy dưới ánh nắng hay bị gai góc làm chết nghẹt. Chỉ có những hạt rơi nhằm đất tốt mới có thể mọc lên và đơm hoa kết quả (x. Mc 4, 3-9; Mt 13, 3-9; Lc 8, 4-8).
Theo như Chúa Giêsu đã phán dạy cùng các môn đệ, người gieo giống này tượng trưng cho Chúa Cha là Đấng đã gieo dồi dào hạt giống Lời Chúa. Nhưng hạt giống thường hay gặp phải đất cằn cỗi là lòng dạ chúng ta, và khi được đón nhận, Lời Chúa có thể trở nên cằn cỗi. Với ơn Sức Mạnh, ngược lại, Chúa Thánh Thần giải phóng đất đai trong lòng chúng ta, giải thoát lòng mình khỏi sự thẫn thờ, khỏi những nghi nan và khỏi tất cả những sự sợ hãi có thể trì kéo lòng mình, để cho Lời Chúa có thể được thể hiện trong cuộc sống một cách đích thực và vui vẻ. Đó là một sự trợ giúp đích thực, ơn Sức Mạnh này, Người ban cho chúng ta Sức Mạnh, Người cũng giải thoát chúng ta ra khỏi nhiều những sự trì kéo.
2. Cũng có những khoảnh khắc khó khăn và những hoàn cảnh thái cực trong đó ơn Sức Mạnh thể hiện một cách phi thường, gương mẫu. Đó là trường hợp những người phải đối đầu với những kinh nghiệm đặc biệt khó khăn và đau đớn, có liên quan đến sinh mạng của họ và của những người thân cận. Hội Thánh sáng láng nhờ việc làm chứng của tất cả những anh chị em này, đã không quản ngại hiến dâng mạng sống mình để giữ lòng trung thành với Chúa và Phúc Âm của Người.
Ngày hôm nay cũng thế, ở nhiều nơi trên thế giới, không thiếu những Kitô hữu vẫn tiếp tục phải cử hành và làm chứng đức tin của họ với một lòng xác tín và một sự bình thản sâu xa, và đã kiên trì, dù rằng đôi khi họ biết là họ sẽ phải trả rất đắt.
Chúng ta cũng vậy, tất cả chúng ta đều biết có những con người đã phải trải nghiệm những tình huống khó khăn, và rất nhiều đau khổ. Chúng ta hãy nghĩ về những con người đó, nam và nữ, đang phải sống một cuộc đời khó khăn, đang phải đấu tranh để nuôi sống gia đình họ, giáo dục con cái họ : họ làm tất cả những điều này bởi vì Thần Khí Sức Mạnh đã giúp đỡ họ. Tất cả những con người nam nữ đó – chúng ta không hề biết tên tuổi họ - làm vinh danh cho dân chúng ta, vinh danh cho Hội Thánh bởi vì họ mạnh mẽ : mạnh mẽ để điều khiển cuộc đời họ, gia đình họ, công ăn việc làm của họ và để sống đức tin của họ. Các anh chị em đó là những vị thánh, những vị thánh hàng ngày, những vị thánh ẩn mình giữa chúng ta : họ đúng là có ơn Sức Mạnh để hoàn thành nhiệm vụ của mình như những con người, nhiệm vụ làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, làm công dân. Họ rất đông đảo.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì các Kitô hữu này với sự thánh thiện ẩn dấu : chính Chúa Thánh Thần ở trong họ và đã thôi thúc họ. Sẽ có ích cho chúng ta khi nghĩ đến những con người đó. Nếu họ có thể làm được tất cả những điều đó, nếu họ đã thành công, thì tại sao tôi không làm được ? Và cũng sẽ có ích cho chúng ta là cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn Sức Mạnh.
Đừng tưởng rằng ơn Sức Mạnh chỉ cần thiết trong một số dịp hay hoàn cảnh đặc biệt mà thôi. Ơn này phải là căn bản trong con người Kitô hữu của chúng ta, trong thường kì đời sống hàng ngày của chúng ta. Như tôi đã nói, chúng ta phải mạnh mẽ mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cần sức mạnh này để điều khiển cuộc sống, gia đình của chúng ta và để sống đức tin của chúng ta.
Thánh Phaolô Tông Đồ đã nói một câu có ích cho chúng ta : "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết" (Pl 4, 13). Khi chúng ta đương đầu với cuộc sống ngày thường, khi những khó khăn nổi lên, chúng ta hãy nhớ câu đó : "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết". Chúa luôn ban cho chúng ta sức mạnh, Người không hề lấy đi của chúng ta. Chúa không thử thách chúng ta trên sức chịu đựng của chúng ta. Người luôn ở với chúng ta. "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết".
Các bạn thân mến, đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ để mặc cho mình bị bệnh lười biếng, hay tệ hơn nữa, bệnh nản lòng xâm chiếm, nhất là trước những mệt mỏi và thử thách của cuộc đời. Trong những trường hợp này, chúng ta đừng mất can đảm, mà hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần, để với ơn Sức Mạnh, Người có thể nâng đỡ tâm hồn chúng ta và thông truyền cho cuộc đời chúng ta, theo chân Chúa Giêsu, một sức mạnh và một sự phấn khởi mới. Cảm ơn !
Bản dịch tiếng Pháp : Héléne Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(14 mai 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/le-don-de-force-antidote-a-la-paresse-et-au-decouragement

 

"Tôi yêu cầu anh chị em hãy quấy rầy các vị mục tử"
Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ngày 11 tháng 5 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 11/5/2014 (Zenit.org)
Tôi yêu cầu anh chị em hãy quấy nhiễu các vị mục tử, hãy quấy rầy các vị mục tử, để các ngài có thể cho anh chị em uống sữa ân sủng, sữa tín lý" : đó là lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô đám đông có mặt trên quảng trường Thánh Phêrô giờ kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ngày chúa nhật, 11 tháng 5 năm 2014.
Đức Thánh Cha đã chủ sự kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, thay thế Kinh Truyền Tin trong mùa Phục Sinh, từ trên cửa sổ văn phòng của ngài trông ra quảng trường Thánh Phêrô. Ngài vừa chủ tế Thánh Lễ truyền chức cho 13 tân linh mục của giáo phận Rôma, trong Đền Thánh Phêrô.
"Tôi yêu cầu anh chị em giúp cho chúng tôi trở thành những mục tử tốt lành", ngài đã tuyên bố với đám đông : "Cầu xin Chúa giúp đỡ các mục tử của chúng ta luôn luôn trung thành với Thầy của minh" bởi vì "chỉ có Đấng Phục Sinh mới là Mục Tử chân chính".
Đức Thánh Cha cũng mời gọi hãy cầu nguyện cho "tất cả các bà mẹ", chúa nhật này là ngày Lễ các Bà Mẹ ở Ý và nhiều quốc gia khác nữa.
Lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trước kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Thân chào quý anh chị em !
Phúc Âm thánh Gioan ngày chúa nhật thứ IV mùa Phục Sinh này giới thiệu với chúng ta, hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Khi suy ngẫm bài Phúc Âm này, chúng ta có thể hiểu được mối quan hệ giữa Chúa Giêsu với các mông đệ của Người : một mối quan hệ đặt nền móng trên lòng nhân từ, trên tình yêu thương, trên sự hiểu biết lẫn nhau và trên lời hứa của một ơn phúc vô biên : "Tôi đến - Chúa Giêsu phán - để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Một mối quan hệ như thế là khuôn mẫu của quan hệ giữa các Kitô hữu và quan hệ giữa con người với nhau.
Ở thời đại ngày hôm nay, giống như thời Chúa Giêsu, vẫn còn nhiều người tự nhận là những "người chăn dắt" cuộc đời chúng ta; nhưng chỉ có Đấng Phục Sinh mới là Mục Tử chân chính, mới cho chúng ta sự sống dồi dào. Tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy tin tưởng vào Chúa là Đấng dẫn dắt chúng ta. Nhưng Người không chỉ dẫn dắt chúng ta : Người đồng hành với chúng ta, Người bước đi bên cạnh chúng ta. Chúng ta hãy nghe Lời Người với một tinh thần và một trái tim rộng mở, để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, để soi sáng lương tâm chúng ta và để theo đúng các giáo huấn của Phúc Âm.
Chúa nhật này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các Mục Tử của Giáo Hội, cho tất cả các giám mục, kể cả giám mục Rôma, cho tất cả các linh mục, cho tất cả ! Chúng ta hãy cầu nguyện cách riêng cho các tân linh mục của giáo phận Rôma, mà tôi vừa truyền chức trong Đền Thánh Phêrô. Xin gửi một lời chào mừng tới 13 vị này ! Cầu xin Chúa giúp đỡ cho chúng tôi, là những mục tử, để chúng tôi trung thành với Thầy chúng tôi và để chúng tôi trở nên những người dẫn dắt ngoan hiền và sáng suốt của Dân Chúa được trao gửi chúng tôi. Với các anh chị em nữa, làm ơn, tôi yêu cầu các anh chị em hãy giúp đỡ chúng tôi : phải, giúp đỡ chúng tôi trở thành các mục tử tốt lành. Đây là một bài viết của thánh Césaire thành Arles, một thượng phụ ở những thế kỷ đầu của Giáo Hội. Ngài giải thích, dân Chúa phải giúp đỡ các mục tử như thế nào, và ngài cho thí dụ này : khi một con bê con khát sữa, nó chạy lại với bò mẹ để bú sữa. Nhưng bò mẹ chưa cho con bú ngay, làm như bò mẹ muốn giữ sữa cho riêng mình. Và như thế, con bê con làm gì ? Nó lấy mõm nó húc vào nấm vú của bò mẹ, để cho sữa chảy ra. Đó là một hình ảnh đẹp ! "Anh chị em - vị thánh nói – cũng phải làm như thế với các vị mục tử : luôn gõ cửa các ngài, gõ vào tấm lòng các ngài, để các ngài cho anh chị em sữa tín lý, sữa ơn phúc và sữa dẫn dắt". Và tôi yêu cầu anh chị em, làm ơn, hãy gây phiền nhiễu cho các mục tử, hãy làm rộn các mục tử, tất cả các mục tử chúng tôi, để chúng tôi có thể ban phát cho anh chị em sữa ơn phúc, sữa tín lý và dẫn dắt anh chị em. Gây phiền nhiễu ! Anh chị em hãy nghĩ về hình ảnh đẹp đẽ của con bê con, nó làm rộn mẹ nó để mẹ nó cho nó bú.
Theo gương Chúa Giêsu, mọi Mục Tử "đôi khi phải đứng phía trước để chỉ đường và nâng đỡ hy vọng của dân chúng - người mục tử đôi khi phải ở phía trước – có lúc ngài chỉ ở giữa mọi người trong sự thân cận đơn sơ và nhân từ, và trong vài trường hợp ngài phải đi sau dân chúng, để giúp đỡ những người ở lại đàng sau". (Tông Huấn Evangelii gaudium, 31). Mong rằng tất cả mọi Mục Tử cũng như thế ! Nhưng anh chị em, anh chị em hãy quấy rầy các mục tử, để họ dẫn dắt anh chị em trong tín lý và ơn phúc.
Ngày chúa nhật này, cũng là Ngày Thế Giới cầu nguyện cho Ơn Gọi. Trong thông điệp của năm nay, tôi đã nhắc lại rằng "mỗi ơn gọi, bất kể có nhiều con đường, luôn đòi hỏi một sự vượt thoát chính mình để tập trung cả cuộc đời mình vào Đức Kitô và vào Phúc Âm của Người" (số 2). Như vậy, ơn gọi theo Chúa Giêsu vừa hưng phấn, vừa lôi cuốn. Để ơn gọi có thể thực hiện, cần phải luôn đi vào tình bạn thâm sâu với Chúa để có thể sống nhờ Người và vì Người.
Chúng ta hãy cầu nguyện để ở ngay thời đại chúng ta, có nhiều thanh niên nghe tiếng gọi của Chúa, tiếng gọi vốn có thể bị át đi bởi bao tiếng gọi khác. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những thanh niên : có lẽ ở đây, trên quảng trường Thánh Phêrô này, có người đã nghe được tiếng gọi của Chúa để làm linh mục; chúng ta hãy cầu nguyên cho người đó, nếu người đó có ở đây, và cho tất cả các thanh niên được ơn kêu gọi.
Lời Đức Thánh Cha sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến,
Tôi chào tất cả anh chị em, các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hội đoàn và các cá nhân đến từ Ý và nhiều quốc gia, đặc biệt những người từ các giáo phận Campo Grande và Dourado (Brasil), New York, Las Palmas (Canaries), các sinh viên của Miranda Do Corvo ở Bồ Đào Nha và những người trẻ của trường "Trái Tim Đức Mẹ Maria", trong khu Alta Cordoba, ở Argentina.
Tôi chào mừng các cộng đoàn tân tòng, trong ngày chúa nhật mùa Phục Sinh này họ sẽ loan truyền Chúa Giêsu Phục Sinh đến 100 địa điểm ở Rôma và nhiều thành phố trên thế giới. Ước mong Chúa ban cho anh chị em niềm vui Phúc Âm ! Và anh chị em hãy tiếp tục, anh chị em rất can đảm.
Một phép lành đặc biệt cho các trẻ em và những người trẻ đã hoặc sẽ Rước Lễ lần đầu và chịu phép Thêm Sức. Và cũng cho cả những gia đình và bạn bè của các tân linh mục của giáo phận Rôma mà tôi vừa truyền chức sáng nay.
Ngày hôm nay, tôi mời gọi anh chị em hãy dâng hiến một ý nghĩ đẹp và một lời cầu nguyện cho tất cả các bà mẹ. Chúng ta cùng chào mừng các bà mẹ ! Chúng ta xin phó dâng các bà mẹ cho Mẹ Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện Đức Trinh Nữ cho các bà mẹ của chúng ta và cho tất cả mọi bà mẹ : "Kính mừng Maria…"
Một lời chào mừng trân trọng cho các bà mẹ : một lời chào mừng trân trọng !
Chúc anh chị em một ngày chúa nhật tươi đẹp ! Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bàn dịch tiếng Pháp : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(11 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/je-vous-demande-de-deranger-les-pasteurs

 

Cầu nguyện trong thinh lặng trên xe buýt, ngoài đường phố :
"Lạy Chúa, xin hãy chỉ bảo cho con"

Bài giáo lý về ơn soi sáng (mưu lược) ngày 07 tháng 5 năm 2014  

Rôma – 07/5/2014 (Zenit.org
Đức Giáo Hoàng mời gọi hãy cầu nguyện "trên xe buýt, ngoài đường phố, trong lòng chúng tả : "Anh chị em hãy cầu xin Chúa : 'Lạy Chúa, xin giúp đỡ con, xin chỉ bảo cho con, con phải làm gì bây giờ ?' ".
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp tục chu trình giáo lý của ngài về 7 ơn của Chúa Thánh Thần, sáng nay, 07/5/2014, trong phiên triều kiến chung : sau ơn khôn ngoan ngày 09/4/ và ơn trí tuệ ngày 30/4, Đức Giáo Hoàng đã suy ngẫm về ơn soi sáng, "ơn mà qua đó Chúa Thánh Thần khiến cho lương tri có khả năng lựa chọn cụ thể theo lôgic của Chúa Giêsu và Phúc Âm của Người".
Qua ơn soi sáng, chính là "Thiên Chúa, qua Thần Khí của Người", sẽ "soi sáng" tâm trí con người bằng cách "làm cho con người hiểu được cách phát ngôn và hành xử đúng đắn và con đường phải noi theo"
"Trong thâm tình với Thiên Chúa và trong sự lắng nghe Lời Người, dần dần chúng ta sẽ bỏ qua một bên cái lô gic cá nhân của chúng ta, cái lôgic thường hay bị chi phối bởi những khép kín, những định kiến và những tham vọng của chúng ta và trái lại, chúng ta học được cách hỏi Chúa : Chúa mong muốn điều gì ? Thánh Ý Chúa là thế nào ? Điều gì làm Chúa hài lòng ?", Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Nhưng Chúa không "chỉ nói với con người trong thâm tâm", Người cũng còn nói với con người "qua tiếng nói và sự làm chứng của các anh em, những con người nam và nữ của đức tin", những người "giúp cho mình soi sáng tâm hồn mình và nhận biết Thánh Ý Chúa", ngài nói thêm.
A.K.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Trong đoạn này của sách Thánh Vịnh, chúng ta đã nghe đọc : "Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy : ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con" (Tv 16, 7). Và đây là một ơn nữa của Chúa Thánh Thần : ơn soi sáng. Chúng ta đều biết rằng trong những lúc tế nhị nhất, thật là quan trọng nếu chúng ta có thể tin cậy được vào những gợi ý của những người khôn ngoàn và yêu thương chúng ta. Bây giờ, qua ơn soi sáng, chính Thiên Chúa, nhờ Thần Khí của Người, soi sáng tâm trí chúng ta và làm cho chúng ta thấu hiểu cách đúng đắn nhất để phát ngôn và để hành xử, cũng như con đường phải theo. Ơn này tác động trong chúng ta như thế nào ?
1. Khi chúng ta chào mừng và đón nhận Chúa Thánh Thần vào trong lòng, Người liền bắt đầu làm cho chúng ta nhậy cảm với tiếng nói của Người và hướng tư tưởng, tình cẳm và ý định của chúng ta theo lòng trí của Thiên Chúa. Đồng thời, Người thúc đẩy chúng ta ngày càng hướng tầm nhìn nội tâm của chúng ta vào Chúa Giêsu, khuôn mẫu của phương cách hành động và sống trong quan hệ với Thiên Chúa Cha và với anh em chúng ta. Ơn soi sáng như thế là ơn, qua đó, Chúa Thánh Thần khiến cho lương tri chúng ta có khả năng lựa chọn cụ thể trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, theo lôgic của Chúa Giêsu và Phúc Âm của Người. Bằng cách này, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta lớn lên về nội tâm, Người làm cho chúng ta lớn lên cách tích cực, Người làm cho chúng ta lớn lên trong cộng đoàn và giúp cho chúng ta thoát khỏi tính ích kỷ và cách nhìn sự việc của riêng chúng ta. Như vậy, Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta lớn lên và sống cộng đồng. Điều kiện cốt yếu để gìn giữ ơn này là cầu nguyện. Chúng ta lại trở về với tiêu đề cũ : cầu nguyện ! Nhưng cầu nguyện thật quá là quan trọng. Cầu nguyện bằng những câu kinh mà chúng ta đã học thuộc lòng từ lúc còn bé, nhưng cũng phải cầu nguyện với những lời lẽ riêng của chúng ta. Cầu xin Chúa : "Lạy Chúa, xin Chúa gíúp con, xin Chúa soi sáng cho con, con phải làm gì bây giờ ?" Và tất cả chúng ta phải thực hiện điều này. Cầu nguyện ! Đừng bao giờ quên cầu nguyện. Đừng bao giờ ! Không có ai, không có ai có thể thấy được khi chúng ta cầu nguyện trên xe buýt, ngoài đường phố : chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng, trong lòng chúng ta. Chúng ta hãy lợi dụng những khoảnh khắc này để cầu nguyện : cầu nguyện để Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn soi sáng.
2. Trong thâm tình với Thiên Chúa và trong sự lắng nghe Lời Người, dần dần chúng ta sẽ bỏ sang một bên cái lôgíc của riêng chúng ta, thường hay bị ảnh hưởng bởi những khép kín, những định kiến và những tham vọng của chúng ta, và ngược lại, chúng ta học cách hỏi Chúa : Chúa mong muốn điều gì ? Thánh Ý Chúa là thế nào ? Điều gì làm Chúa hài lòng ? Như thế, sẽ chín muồi trong chúng ta sự đồng hưởng sâu sắc, gần như tự nhiên trong Chúa Thánh Thần và chúng ta có thể trải nghiệm chân lý của những phán dạy của Chúa Giêsu được ghi lại trong Phúc Âm theo thánh Mát-thêu : "Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì : thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (Mt 10, 19-20).
Chính Chúa Thánh Thần chỉ dạy cho chúng ta, nhưng chúng ta phải dọn chỗ cho Người, để Người có thể soi sáng cho chúng ta. Và dọn chỗ, chính là cầu nguyện : luôn phải cầu nguyện để Người ngự đến và giúp cho chúng ta.
3. Cũng như tất cả các ơn khác của Chúa Thánh Thần, ơn soi sáng cũng là một kho báu cho tất cả cộng đoàn Kitô hữu. Chúa không chỉ phán dạy thầm kín trong lòng cho chúng ta, Ngưòi Phán dạy chúng ta, đúng, nhưng không chỉ ở đó, Người cũng còn phán dạy chúng ta qua tiếng nói và sự làm chứng của anh em chúng ta. Chính thật là một ơn trọng đại khiến có thể gặp gỡ những con người nam nữ của đức tin, nhất là trong những giai đoạn phức tạp và quan trong nhất trong cuộc đời chúng ta, để giúp chúng ta soi sáng tâm hồn chúng ta và nhận biết Thánh Ý Chúa !
Tôi còn nhớ, có một lần, ở thánh địa Luján, tôi đang ngồi tòa và có một hàng dài chờ đến lượt mình. Có một cậu thanh niên, rất tân thời, với khuyên tai, xâm mình, đủ thứ… Và cậu ta đến kể với tôi chuyện đã xẩy ra với cậu : một vấn đề lớn, khó xử. Và cậu đã nói với tôi : "Con đã kể tất cả với mẹ con và mẹ con nói : con đi gặp Đức Mẹ đi và Đức Mẹ sẽ bảo con phải làm thế nào". Quả là một người đàn bà có ơn soi sáng. Ơn soi sáng, chính là thế đó. Người đàn bà này khiêm nhường, đơn sơ, đã cho con mình một lời khuyên bảo chân chính nhất. Quả vậy, cậu ta đã nói với tôi : "Con đã nhìn lên Đức Mẹ và con cảm thấy rằng con phải làm điều này, điều kia…". Tôi đã không cần nói gi thêm, cậu trẻ và mẹ cậu đã nói hết rồi. Chính đó là ơn soi sáng. Các chị em là những người mẹ có ơn này, các chị em hãy cầu xin ơn này cho con cái mình ! Ơn khuyên bảo con cái mình là một ơn của Thiên Chúa.
Các bạn thân mến, Thánh Vịnh 16 mà chúng ta đã nghe, mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện với những lời sau đây : "Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ" (Tv 16, 7-8). Ước mong rằng Chúa Thánh Thần luôn có thể đặt để niềm xác tín này trong lòng chúng ta và như thế, đổ xuống tràn đầy cho chúng ta sự an ủi và bình an của Người ! Anh chị em hãy không ngừng cầu xin ơn soi sáng !
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt ; Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 7 mai 2014) © Innovative Media Inc.

http://www.zenit.org/fr/articles/prier-en-silence-dans-le-bus-dans-la-rue-seigneur-conseille-moi

 

HÀNH HƯƠNG PHỤC SINH 2014
Cha thánh Piô, Phép lạ Thánh thể,
Lễ phong thánh hai ĐGH : Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Nhân dịp kỳ nghỉ Phục sinh, chúng tôi hành hương về Rôma với mục đích chính là để tham dự ngày lễ phong thánh cho Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II (27.04.2014). Chúng tôi thật may mắn vì được nghỉ tại Foyer Phát Diệm1 là nơi mà vào năm 1980 Đức Gioan Phaolô II đến thăm các Đức Giám Mục Việt Nam nhân dịp các ngài đi Ad Limina.
Nhân cơ hội hiếm có này, chúng tôi được thăm một số đền thờ tại Rôma, hang toại đạo, nhà tù nơi giam giữ thánh Phêrô và Phaolô2... Ngoài ra, chúng tôi còn được cha Gioan Trần Mạnh Duyệt, Giám đốc Foyer Phát Diệm, hướng dẫn hành hương cha Piô năm dấu thánh ở San Giovanni Rotondo và Phép lạ Thánh thể ở Lancianô. Cuộc hành hương đến những địa danh kể trên và cách riêng là được tham dự thánh lễ phong thánh lần đầu tiên trong cuộc đời, chúng tôi cảm thấy được hòa mình vào sức sống của Giáo hội qua những biến cố lịch sử và chứng kiến tính phổ quát của Giáo hội ngay tại thánh đô. Vì thế, chúng tôi ghi lại mấy dòng để nhớ về cuộc hành hương này...

Xin mời vào đọc

 

Sự quyến luyến đặc biệt của các môn đệ
trên đường Ê-mau với người huyền bí

Đức Giáo Hoàng bình giảng bài Phúc Âm về các môn đệ trên đường E-mau  

Rôma – 04/5/2014 (Zenit.org
Khi con buồn, hãy đọc Lời Chúa và đi lễ để rước lễ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích khi bình giảng đoạn Phúc Âm nói về các môn đệ trên đường Ê-.mau. Ngài nhấn mạnh "sự quyến luyến đặc biệt của các môn đệ trên đường Ê-mau đối với người huyền bí". "Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui" Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chủ sự giờ kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng buổi trưa chúa nhận 04/5/2014, từ cửa sổ văn phòng của ngài mở ra quảng trường Thánh Phêrô, sau khi chủ tế Thánh Lễ Tạ Ơn sau lễ phong thánh các Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II, tại nhà thờ thánh Stanislas của những người Balan tại Rôma, ở giữa quảng trường Venise và Largo Argentina.
Sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra lời kêu gọi hòa bình ở Ukraina và cho các nạn nhân của vụ đất sụt lở tại Afghanistan. Ngài đã thông báo một chuyến viếng thăm Đại Học Công Giáo ở Rôma, và ngài đã chào mừng Hội Trạm Người Điếc của thành phố Lyon.
Ngài cũng đã khuyến khích cuộc Đi Bộ bảo vệ sự sống ở nước Ý và hội Meter bảo vệ trẻ em chống nạn lạm dụng tình dục.
Sau đây là bản dịch toàn văn lời Đức Giáo Hoàng trước và sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
A.B.
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trướng Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Thân chào quý anh chị em !
Bài Phúc Âm chúa nhật thứ ba Phục Sinh là bài về các môn đệ trên đường Ê-mau (x. Lc 24, 14-35). Đó là hai môn đệ của Chúa Giêsu; sau cái chết của Người, và sau ngày sabbat, họ đã buồn nản rời Giêrusalem để trở về quê quán của mình, tên gọi là làng Ê-mau.
Dọc đường, Chúa Giêsu phục sinh đã đi kịp các ông, nhưng các ông đã không nhận ra Người. Thấy họ buồn bã quá sức, trước hết Người đã giúp đỡ các ông hiểu rằng Cuộc Khổ Nạn và cái chết của Đấng Thiên Sai đã được tiên liệu trong công trình của Thiên Chúa và đã được báo trước bởi Thánh Kinh, Và như thế, Người đã nhóm lại ngọn lửa hy vọng trong lòng các ông.
Vào lúc đó, hai môn đệ cảm thấy một sự quyến luyến lạ thường đối với con người huyền bí và các ông đã mời Người ở lại với các ông vì trời đã xế chiều.
Chúa Giêsu nhận lời và Người cùng các ông đi vào trong nhà. Và khi ngồi vào bàn, Người làm phép bánh và bẻ bánh, các ông đã nhận ra Người, nhưng Người biến mất, bỏ lại các ông trong sững sờ.
Sau khi được soi sáng bởi Lời, các ông đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh nhờ việc bẻ bánh, một dấu chỉ mới cho sự hiện diện của Người.
Và các ông đã cảm thấy có nhu cầu trở lại Giêrusalem, để báo cáo trải nghiệm của các ông với các môn đệ khác : rằng họ đã gặp được Chúa Giêsu sống động và các ông đã nhận biết Người nhờ vào cử chỉ bẻ bánh.
Con đường Ê-mau như thế, trở nên biểu tượng của hành trình đức tin của chúng ta : Thánh Kinh và Thánh Thể là những yếu tố cần thiết để gặp gỡ với Chúa.
Cả chúng ta nữa, chúng ta thường đến dự lễ ngày chúa nhật với những bận tâm, những khó khăn và những thất vọng của chúng ta… Cuộc đời thường làm chúng ta mang thương tích và chúng ta ra đi, trong buồn rầu tới "những nẻo đường Ê-mau" của chúng ta, quay lưng lại với công trình của Thiên Chúa. Chúng ta rời xa Thiên Chúa. Nhưng hiểu được Phụng Vụ Lời Chúa : Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh và lần nữa, Người làm cho lòng chúng ta ấm áp lên bằng đức tin và niềm hy vọng. Và trong rước lễ, Người ban cho chúng ta sức mạnh
Lời Chúa và Phép Thánh Thể. Mỗi ngày đọc một đoạn Phúc Âm. Anh chị em hãy nhớ rõ là mỗi ngày đọc một đoạn Phúc Âm. Và ngày chúa nhật, đi rước lễ, đi nhận lấy Chúa Giêsu. Đó chính là điều đã xẩy ra với các môn đệ trên đường Ê-mau : các ông đã đón nhận Lời Chúa, các ông đã chia xẻ việc bẻ bánh. Và từ buồn rầu và thất bại mà các ông cảm thấy lúc trước, các ông đã trở thành vui tươi.
Các anh chị em thân mến, Lời Chúa và Thánh Thể luôn làm chúng ta tràn ngập niềm vui.
Anh chị em hãy nhớ rõ điều đó ! Khi con buồn, buồn vì chuyện gì, hãy đọc Lời Chúa. Khi con không có tinh thần hãy đọc Lời Chúa ! Và con hãy đi lễ ngày chúa nhật, hãy đi rước lễ, tham gia vào mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui.
Nhờ lời chuyển cầu của Rất Thánh Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy cầu nguyện để cho mọi Kitô hữu, sống lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Ê-mau, đặc biệt trong Thánh Lễ ngày chúa nhật, tái khám phá ơn có được cuộc gặp gỡ mang tính biến đổi với Chúa phục sinh vốn hằng ở với chúng ta.
Vẫn luôn có một Lời Chúa để ban cho chúng ta phương hướng sau những vấp ngã của chúng ta; và thông qua những mệt mỏi, những thất vọng của chúng ta, vẫn luôn có một tấm Bánh được bẻ ra để chúng ta tiến lên trên con đường của chúng ta.
Lậy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng, alleluia…
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến,
Tôi muốn mời gọi anh chị em hãy phó thác cho Đức Bà tình hình ở Ukraina, nơi những căng thẳng không chấm dứt. Tình thế nghiêm trọng.
Tôi cùng anh chị em, chúng ta hãy cầu nguyện cho các nạn nhân trong những ngày qua, và cầu xin Chúa hãy ban xuống trong lòng mọi người những tình cảm hòa giải và huynh đệ.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đã chết trong vụ lở đất rộng lớn ở A Phú Hãn. Xin Thiên Chúa Toàn Năng, Người vốn biết tên từng người trong họ, đón nhận họ vào trong sự bình an của Người. Xin Chúa ban cho những người sống sót sức mạnh để tiến về phía trước, với sự nâng đỡ của những ai đang tận lực làm nhẹ đi những đau khổ của họ.
Hôm nay chính là Ngày Đại Học Công Giáo Thánh Tâm lần thứ 90, với chủ đề : "Với giới trẻ, tác nhân của tương lai". "Chủ đề đẹp biết bao ! Các con là những tác nhân của tương lai, các con đã đi vào tương lai".
Tôi cầu nguyện cho trường Đại Học lớn này để trường trung thành với sứ mạng ban đầu và được cập nhật cho thế giới hiện đại. Nếu đẹp lòng Chúa, tôi sẽ viếng thăm trong một ngày gần đây, Khoa Y và Giải Phẫu của bệnh viện đa khoa Gemelli đã có lịch sử 90 năm tại Rôma này.
Tôi chào mừng anh chị em tín hữu Rôma và các khách hành hương ! Cách riêng, các tín hữu của giáo phận Parme, được hướng dẫn bởi Đức Giám Mục Enrico Solmi, với nhiều bạn trẻ đang tham gia một hành trình mang tên "Công Đồng Giới Trẻ". Tên hay lắm ! Chúc tất cả thượng lộ bình an !
Tôi chào mừng hội "Meter", từ gần 20 năm nay, đã đấu tranh chống mọi hình thức lạm dụng trẻ vị thành niên. Cảm ơn vì sự dấn thân của các bạn.
Và các tham dự viên của cuộc Đi Bộ Bảo Vệ Sự Sống, năm nay có một đặc tính quốc tế và đại kết.
Tôi chào mừng các hội "Trạm người Điếc" của Lyon, "Il potico" của Pađôva và "Vườn Trẻ" của Argentina; các Chị nữ tu giáo viên Sainte-Dorothée; các tín hữu Melchites của Úc Đại Lợi và Alcorcón, ở Tây Ban Nha; các bạn trẻ Balan của Rybnik, các môn đệ của chân phước Piergiorgio Frassati; ca đoàn và dàn kèn Lenola, các ca đoàn của giáo phận Udine và các hội Những Người Cắm Trại
Tôi cảm ơn sự có mặt của nhiều nhóm giáo xứ và giới trẻ !
Tôi chúc anh chị em một ngày chúa nhật vui vẻ. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Borudin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
( 4 mai 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-attraction-extraordinaire-des-disciples-d-emmaus-pour-l-homme-mysterieux

 

Hiểu biết mọi sự như Thiên Chúa hiểu biết
Bài giáo lý về ơn trí tuệ ngày 30 tháng 4 năm 2014 (toàn văn)  

Rôma – 30/4/2014 (Zenit.org
Ơn trí tuệ "làm cho hiểu biết mọi sự như Thiên Chúa hiểu biết, với trí tuệ của Thiên Chúa" : chính là "ơn qua đó, Chúa Thánh Linh đưa [con người] vào trong thâm tình của Thiên Chúa và làm cho [con người] tham dự vào dự định tình yêu của Người", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Đức Giáo Hoàng đã dành bài giáo lý của ngày thứ tư 30/4/2014 cho ơn trí tuệ, ơn thứ nhì của Chúa Thánh Thần sau ơn khôn ngoan, được nhắc đến vào ngày 09/4/2014 vừa qua.
Nếu "người ta có thể hiểu biết một hoàn cảnh với trí tuệ con người, với sự thận trọng", tuy nhiên, "hiểu biết sâu sắc một hoàn cảnh, như Thiên Chúa hiểu biết", là tác dụng của ơn trí tuệ, ngài nhấn mạnh.
Quả thật, bằng ơn này, "Chúa Thánh Thần mở lòng chúng ta, Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta hiểu biết hơn, để chúng ta hiểu biết hơn mọi sự của Thiên Chúa, những sự việc con người, những hoàn cảnh, tất cả" ngài nói thêm.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Sau khi xem xét ơn khôn ngoan, vốn là ơn thứ nhất trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, ngày hôm nay, tôi muốn lưu ý chúng ta về ơn thứ nhì, đó là ơn trí tuệ. Không phải là trí tuệ loài người, là khả năng trí thức mà chúng ta có thể ít nhiều có được. Trái lại, chính là một ơn mà chỉ có Chúa Thánh Thần có thể ban xuống, và Người khơi lên trong các Kitô hữu khả năng đi xa hơn bề ngoài của hiện thực và khả năng tìm hiểu kỹ càng chiều sâu của thánh ý Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người.
Khi nói với cộng đoàn ở Côrintô, thánh Phaolô tông đồ đã mô tả những tác dụng của ơn này – nghĩa là ơn trí tuệ tác động trong chúng ta như thế nào – và thánh Phaolô nói : "chúng ta loan báo điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mạc khải cho, nhờ Thần Khí" (1 Cr 2, 9-10). Điều này đương nhiên không có nghĩa là một Kitô hữu có thể hiểu được tất cả và biết đầy đủ về những công trình của Thiên Chúa : tất cả điều đó nằm trong sự chờ đợi được thể hiện trong tất cả sự trong sáng khi chúng ta đứng trước Thiên Chúa và chúng ta sẽ trở nên một với Người. Nhưng như chính hai chữ trí tuệ gợi ý cho ta hiểu là "intus legere", nghĩa là "đọc từ bên trong" : ơn này làm cho chúng ta hiểu biết mọi sự như Thiên Chúa hiểu biết, với trí tuệ của Thiên Chúa. Bởi vì nếu người ta có thể hiểu được một tình huống với trí tuệ loài người thì đã là tốt rồi. Nhưng hiểu được một tình huống một cách sâu sắc, như Thiên Chúa hiểu, thì đó là tác động của ơn này. Và Chúa Giêsu đã muốn gửi Chúa Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có được ơn này, để tất cả chúng ta có thể hiểu mọi sự như Thiên Chúa hiểu, với trí tuệ của Thiên Chúa. Đó là một ơn cao quý mà Chúa đã ban tặng cho tất cả chúng ta. Đó là ơn, qua đó Chúa Thánh Thần đưa chúng ta vào trong thâm tình của Thiên Chúa và cho húng ta thông hiệp vào dự định tình yêu của Người đối với chúngg ta.
Như thế, thật quá rõ ràng là ơn trí tuệ gắn liền với đức tin. Khi Chúa Thánh Thần ngự trong lòng chúng ta và soi sáng tâm trí chúng ta, Người làm cho chúng ta mỗi ngày một lớn lên trong sự hiểu bìết những điều Chúa đã phán và đã làm. Chính Chúa Giêsu đã phán điều này với các môn đệ : Thầy sẽ gửi Thánh Thần xuống cho anh em và Người sẽ làm cho anh em hiểu ra những điều Thầy đã dạy anh em. Hiểu ra những giáo huấn của Chúa Giêsu, hiểu được Lời Người, hiểu được Phúc Âm, hiểu được Lời của Thiên Chúa. Người ta có thể đọc Phúc Âm và hiểu được đôi điều, nhưng nếu chúng ta đọc Phúc Âm với ơn này của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể hiểu sâu sắc Lời của Thiên Chúa. Và đây là một ơn trọng đại, một ơn trọng đại mà tất cả chúntg ta phải cầu xin và cung nhau cầu xin : Lậy Chúa, Xin ban cho chúng con ơn trí tuệ.
Có một đoạn trong Phúc Âù thánh Luca nói lên rõ ràng chiều sâu và sức mạnh của ơn này. Sau khi chứng kiến cái chết trên thập giá và lễ mai táng Chúa Giêsu, hai trong các môn đệ, chán nản và trĩu nặng trong lòng, rời bỏ Giêrusalem để trở về quê quán của mình là làng Ê-mau. Trong lúc họ đi trên đường, Chúa Giêsu phục sinh đi gần và bắt chuyện với họ, nhưng đôi mắt họ đã mờ đi vì buồn thảm và lòng đầy thất vọng, họ đã không nhận ra Người. Chúa Giêsu bước đi với họ, mà họ buồn và thất vọng đến độ không nhận ra Người. Nhưng khi Chúa giải thích Thánh Kinh cho họ, để họ hiểu rằng Người phải chịu khổ nạn và chịu chết để sau đó sống lại, thần trí họ đã mở ra và, trong thâm tâm họ, hỵ vọng đã tái sinh (x. Lc 24, 13-27). Và chính đây là điều mà Chúa Thánh Thần làm với chúng ta : Người mở thần trí chúng ta, Người mở lòng chúng ta để chúng ta hiểu rõ hơn, để chúng ta hiểu nhiều hơn những điều của Thiên Chúa, những điều của loài người, những tình huống, tất cả. Ơn trí tuệ quan trọng cho đời sống Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ơn này, xin Người ban cho chúng ta, xin Người ban cho mỗi người chúng ta ơn này để chúng ta hiểu, cũng như Người hiểu, điều gì xảy ra và nhất là để chúng ta hiểu được Lời của Thiên Chúa trong Phúc Âm.
Cảm ơn.
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(30 avril 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/comprendre-les-choses-comme-dieu-les-comprend

 

Hai vị Thánh Giáo Hoàng cho Giáo Hội :
"Nơi các ngài, Thiên Chúa là mạnh nhất"

Bài giảng lễ Phong Thánh các Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II (toàn văn)

 

Rôma – 27/4/2014 (Zenit.org
Các thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II "đã là các vị linh mục, các vị giám mục, các vị Giáo Hoàng của thế kỷ XX. Các ngài đã nếm trải những thảm kịch, nhưng đã không bị chúng nghiền nát. Nơi các ngài, Thiên Chúa đã là Đấng mạnh nhất; còn mạnh hơn nữa là đức tin vào Đức Giêsu Kitô cứu độ loài người và Chúa tể lịch sử; mạnh hơn nữa trong các ngài lả lòng thương xót của Thiên Chúa…", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh.
Đức Giáo Hoàng đã cử hành lễ phong thánh hai Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963) và Gioan Phaolô II (1920-2005), trên quảng trường Thánh Phêrô, sáng ngày 27/4/2014, Chúa Nhật thứ II Phục Sinh, còn gọi là "Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa".
"Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để khôi phục và cập nhật hóa Giáo Hội theo đúng dung mạo nguyên thủy, dung mạo mà các thánh đã tạo cho Giáo Hội trong bao thế kỷ", ngài đã tuyên bố trong bài giảng của ngài.
Ngài đã chào mừng Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII như "Vị Giáo Hoàng của sự ngoan ngoãn với Thánh Linh" và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II như "Vị Giáo Hoàng của gia đình".
"Ước mong các ngài dạy cho chúng ta đừng có phẫn uất về các vết thương của Chúa Kitô, và biết đi vào mầu nhiệm lòng thương xót Chúa vốn luôn đợi chờ, luôn tha thứ, bởi vì luôn yêu thương", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã kết luận như vậy đúng ngày Chúa Nhật Lòng Thươg Xót Chúa, ngày mà chính Đức Gioan Phaolô II đã lập nên.
Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Ở giữa ngày Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Phục Sinh, mà thánh Gioan Phaolô II đã muốn cung hiến cho Lòng Thương Xót Chúa, đã có những thương tích vinh hiển của Đức Giêsu phục sinh.
Chúa đã phô bày các thương tích đó ngay lần đầu tiên Người hiện ra với các Tông Đồ, buổi chiều hôm sau ngày sabbat, ngày Phục Sinh. Nhưng chiều hôm đó, như chúng ta đã nghe (trong bài Tin Mừng), ông Tôma không có ở đó; và khi những người khác nói với ông rằng họ đã trông thấy Chúa, ông trả lời rằng, nếu ông không nhìn thấy và không sờ mó được các vết thương (của Người), ông không tin. Tám ngày sau, Chúa Giêsu đã lại hiện ra ở nhà Tiệc Ly, giữa các môn đệ, ông Tôma cũng có ở đó; Người phán với ông và mời gọi ông sờ tay vào các thương tích của Người. Và lúc đó, con người chân thực đó, con người có thói quen đích thân kiểm chứng đó, đã sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu và thưa với Người rằng "Lạy Chúa của con ! Lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20, 28).
Các thương tích của Chúa Giêsu là một sự phẫn uất đối với đức tin, nhưng chúng cũng là sự kiểm chứng đức tin. Bởi vậy trong, trong thân xác Đức Kitô sống lại, các vết thương không biến đi, chúng tồn tại, bởi vì chúng là dấu hiệu vĩnh cửu của tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và chúng là tối cần thiết để tin vào Thiên Chúa. Không phải để tin là có Thiên Chúa, mà để tin rằng Thiên Chúa là tình yêu, là lòng thương xót, là lòng trung thành. Thánh Phêrô, nhắc lại lời tiên tri I-sa-ia, khi viết cho các Kitô hữu : "Vì người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành" (1 Pr 2, 24; Is 53, 5).
Thánh Gioan XXIII và thánh Gioan Phaolô II đã có can đảm dám nhìn các thương tích của Chúa Giêsu, dám sờ vào tay bị thương tích của Người và cạnh sườn bị đâm thủng của Người. Hai đấng đã không hổ thẹn với cốt nhục Chúa Kitô, các ngài không bị phẫn uất vì Người, vì cây thập giá; các ngài đã không hổ thẹn vì cốt nhục của người anh em (x. Is 58, 7), bởi vì nơi bất cứ ai đau khổ, các ngài đã nhìn thấy Chúa Giêsu. Các ngài đã là hai người can đảm, đầy tự do và can đảm (parresia) của Chúa Thánh Thần, và các ngài đã làm chứng với Giáo Hội và với thế giới về lòng nhân lành của Thiên Chúa, về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Các ngài đã là các linh mục, các giám mục, các giáo hoàng của thế kỷ XX. Các ngài đã nếm trải những thảm kịch, nhưng đã không bị chúng nghiền nát. Nơi các ngài, Thiên Chúa đã là Đấng mạnh nhất; còn mạnh hơn nữa là đức tin vào Đức Giêsu Kitô cứu độ loài người và Chúa tể lịch sử; mạnh hơn nữa trong các ngài lả lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện bởi 5 vết thương; mạnh mẽ hơn là sự gần gũi mẹ con với Mẹ Maria.
Nơi hai ngài, là các đấng chiêm ngắm các thương tích của Đức Kitô và là các chứng nhân cho lòng thương xót của Người, vẫn hằng có một "niềm hy vọng sống động", một "niềm vui khôn tả và rực rỡ vinh quang" (1 Pr 1, 3. 8). Niềm hy vọng và niềm vui mà Đức Kitô phục sinh ban cho các môn đệ của Người, và không có gì cũng chẳng có ai có thể lấy đi được. Niềm hy vọng và niềm vui phục sinh, trải qua lò nung của sự trần trụi, của sự kiện là xả bỏ tất cả, của sự gần gũi với những người tội lỗi đến tột cùng, đến sự lộn mửa vì chén đắng. Đó là niềm hy vọng và niềm vui mà hai vị thánh giáo hoàng đã nhận được như là ân điển của Chúa phục sinh, và đến lượt các ngài đã ban lại những ơn đó cho dân của Thiên Chúa, rồi được nhận lại như một sự cảm tạ đời đời.
Niềm hy vọng và niềm vui này đã như hơi thở trong các cộng đoàn tín hữu đầu tiên, ở Giêrusalem, được kể trong sách Tông Đồ Công Vụ (x. Cv 2, 42-47), mà chúng ta đã nghe trong bài đọc hai. Đó là một cộng đoàn nơi cốt lõi của Giáo Hội sinh sống, nghĩa là tình yêu, lòng thương xót, trong sự đơn sơ mộc mạc và tình huynh đệ.
Đó là hình ảnh của Giáo Hội mà Công Đồng Vaticanô II đã nhìn thấy trước mặt. Các thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã hợp tác với Chúa Thánh Thần để khôi phục và cập nhật hóa Giáo Hội theo đúng dung mạo nguyên thủy, dung mạo mà các thánh đã tạo cho Giáo Hội trong bao thế kỷ. Chúng ta đừng quên rằng, chính các thánh đã đi tiên phong và làm lớn mạnh Giáo Hội. Trong việc triệu tập Công Đồng, thánh Gioan XXIII đã cho thấy một sự ngoan ngoãn tế nhị với Chúa Thánh Thần, ngài đã để mình được dẫn dắt và đối với Giáo Hội, ngài đã là một mục tử, một người dẫn đường được hướng dẫn, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Đây là công lớn ngài đã làm cho Giáo Hội. Bởi vậy, tôi ưa nghĩ tới ngài như một vị Giáo Hoàng của lòng ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần.
Trong việc phục vụ Dân của Thiên Chúa, thánh Gioan Phaolô II đã là một vị Giáo Hoàng của gia đình. Chính ngài, ngày nọ đã phán rằng, ngài muốn người ta nhớ đến ngài như một vị Giáo Hoàng của gia đình. Điều này làm tôi vui lòng để nhấn mạnh trong lúc chúng ta đang trên đường đi đến công nghị về gia đình và với các gia đình, một hành trình mà, từ trên Trời, chắc chắn, ngài sẽ đồng hành và phù hộ chúng ta.
Cầu xin hai vị hiển thánh Mục Tử của Dân Thiên Chúa mới này chuyển cầu cho Giáo Hội, để cho, trong hai năm sắp tới của hành trình công nghị, Giáo Hội sẽ ngoan ngoan với Chúa Thánh Thần trong mục vụ gia đình của mình. Cầu xin hai vị dạy dỗ cho chúng ta đừng phẫn uất vì các thương tích của Đức Kitô, và đi vào trong mầu nhiệm lòng thương xót của Chúa ; vốn luôn đợi chờ, luôn tha thứ, bởi vì luôn yêu thương.
(27 avril 2014) © Innovative Media Inc.
Mạc Khải phỏng dịch

http://www.zenit.org/fr/articles/deux-saints-papes-pour-l-eglise-en-eux-dieu-etait-le-plus-fort

 

Tại sao tôi lại đi tìm người sống giữa những kẻ chết ?
Bài giáo lý về phục sinh (toàn văn) 

Rôma – 23/4/2014 (Zenit.org
Hôm nay, khi về nhà, chúng ta hãy nói trong lòng, trong sự thinh lặng, và tự đặt câu hỏi này : tại sao, trong cuộc đời mình, tôi lại đi tìm người đang sống giữa những kẻ đã chết ? Điều này có ích cho chúng ta", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban lời khuyên trong buổi triều kiến chung ngày thứ tư 23/4/2014 này trên quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Giáo Hoàng đã dành bài giáo lý của ngài cho đề tài Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.
Ngài đã đưa ra những thí dụ theo kiểu "đi tìm giữa những người chết" : "khi chúng ta thu mình vào một hình thức ích kỷ và tự mãn nào đó; khi chúng ta để bị quyến rũ bởi những quyền lực trên trái đất và bởi những sự thế gian, quên đi Thiên Chúa và anh em; khi chúng ta đặt niềm hy vọng trong những phù du trần tục, trong tiền bạc, trong thành công".
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bằng tiếng Ý kể cả một vài câu ngài bất chợt thêm vào.
A.B.
Bài Giáo Lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bàng tiếng Ý
Thân chào quý anh chị em !
Tuần này là một tuần lễ vui mừng : chúng ta mừng Chúa Giêsu Phục Sinh. Đó là một niềm vui thật sự, sâu sắc, xây dựng trên sự xác tín từ nay rằng, Đức Kitô phục sinh sẽ không chết nữa, mà Người đang sống và đang hành động trong Hội Thánh và trên thế gian. Sự xác tín này ở trong lòng các tín hữu kể từ sáng ngày Lễ Phục Sinh khi các phụ nữ đã ra mộ Chúa Giêsu và khi thiên thần đã nói với các bà : "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?" (Lc 24, 5).
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa những kẻ chết ?" Những lời này như một lằn mốc trong lịch sử; nhưng cũng là một "tảng đá cản đường", nếu chúng ta không mở ra với Tin Mừng, nếu chúng ta nghĩ rằng một Chúa Giêsu chết sẽ ít làm phiền hơn một Chúa Giêsu hằng sống !
Tuy vậy, đã bao nhiêu lần, trong hành trình thường nhật của mình, chúng ta cần nghe thấy chính mình nói rằng : "Sao mình lại tìm Người Sống ở giữa những kẻ chết ?" ! Đã bao nhiêu lần chúng ta đã đi tìm sự sống ở giữa những sự vật đã chết, ở giữa những sự vật không cho được sự sống, ở giữa những sự vật ngày nay thì có, ngày mai không còn, những sự vật chóng qua đi… "Sao anh chị em lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?"
Chúng ta cần nghe lại khi chúng ta thu mình trong một hình thức ích kỷ và tự mãn nào đó; khi chúng ta để bị quyến rũ bởi những quyền lực trên trái đất và bởi những sự thế gian, quên đi Thiên Chúa và anh em; khi chúng ta đặt niềm hy vọng trong những phù du trần tục, trong tiền bạc, trong thành đạt. Khi đó Lời Thiên Chúa nói với chúng ta : "Sao anh em lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?".
Sao con đi tìm ở đó ? Cái đó không cho con sự sống ! Đúng, có lẽ rằng cái đó sẽ cho con thú vui trong một phút, một ngày, một tuần, một tháng… và rồi thì sao ? "Sao anh em lại đi tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?" Câu nói này phải đi vào trong tâm hồn chúng ta và chúng ta phải nhắc lại nó. Chúng ta hãy cùng nhau nói lại một lần đi. Chúng ta có muốn làm nỗ lực này không ? Tất cả nào : "Sao anh em lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?" [Đám đông nhắc lại]
Hôm nay, khi về nhà, chúng ta hãy nói trong lòng, trong sự thinh lặng, và tự đặt câu hỏi này : tại sao, trong cuộc đời mình, tôi lại đi tìm người đang sống ở giữa những kẻ đã chết ? Điều này có ích cho chúng ta.
Không dễ gì mở lòng ra với Chúa Giêsu. Chấp nhận sự sống của Đấng Phục Sinh và sự có mặt của Người ở giữa chúng ta không phải là chuyện đương nhiên một lần là đủ. Phúc Âm chỉ cho ta thấy phản ứng của ông Tôma Tông Đồ, của bà Maria Mađalêna và của hai môn đệ trên đường E-mau : so sánh chúng ta với họ có ích cho chúng ta. Ông Tôma đặt một câu hỏi với đức tin, ông yêu cầu được đụng chạm với điều hiển nhiên, các vết thương của Người; Bà Maria Mađalêna khóc, bà thấy Người nhưng không nhận ra Người, bà chỉ nhận ra đó là Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà; các môn đệ trên đường E-mau, suy sụp tinh thần với cảm tưởng thất bại, đã gặp được Chúa Giêsu bằng cách đồng hành với người lữ khách huyền bí.
Mỗi người bằng một con đường khác nhau ! Các ông bà đã tìm Người Sống ở giữa kẻ chết và chính Chúa đã đưa họ về đúng đường . Và tôi, tôi làm gì ? Tôi sẽ đi con đường nào để gặp được Đức Kitô hằng sống ? Ngài sẽ luôn mãi ở gần chúng ta để chỉ đường cho chúng ta, nếu chúng ta đi lạc.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?" (Lc 24, 5). Câu hỏi này làm cho chúng ta vượt khỏi cám dỗ nhìn về phía sau, đó là ngày hôm qua, và thúc đẩy chúng ta tiên tới tương lai. Chúa Giêsu không có ở trong mồ, Người đã Phục Sinh. Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng luôn làm mới lại Thân Thể của Người là Hội Thánh và khiến cho Hội Thánh lên đường và thu hút Hội Thánh về với Người. "Hôm qua", chính là nấm mồ của Chúa Giêsu và nấm mồ của Hội Thánh, mồ chôn của sự thật và công lý; "hôm nay", chính là sự phục sinh vĩnh cửu mà Thánh Linh thúc đẩy chúng ta tới, bằng cách ban cho chúng ta tự do đầy đủ.
Hôm nay, câu hỏi này cũng được đặt ra cho chúng ta. Này con, sao con lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết, con là người tự khép kín mình sau một thất bại, và con là người không còn đủ sức để cầu nguyện ? Sao con lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết, con là người cảm thấy cô đơn, bị bạn bè bỏ rơi, con là người đã mất đi niềm hy vọng và con là người cảm thấy bị giam hãm bởi tội lỗi của mình ? Sao con lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết, con là người khát vọng cái đẹp, cái toàn hảo thiêng liêng, khát vọng công lý và hòa bình ?
Chúng ta cần nghe lại và cần nhắc nhở cho nhau lời cảnh báo của thiên thần. Lời cảnh báo đó, "sao anh chị em lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?", giúp chúng ta thoát ra khỏi những không gian buồn thảm và mở ra cho chúng ta những chân trời của vui mừng và của hy vọng, niềm hy vọng này đã cất bỏ những tảng đá lấp mồ và khuyến khích loan báo Tin Mừng, có khả năng sinh sản ra những người khác trong cuộc đời mới.
Chúng ta hãy lập lại câu nói này của thiên thần để nhập tâm, nhập ý và rồi để mỗi người trả lời trong thinh lặng : "Sao anh chị em lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ?" Chúng ta hãy lặp lại câu này [Đức Giáo Hoàng cùng đám đơng lặp lại]. Anh chị em hãy nhìn kìa, Người hằng sống, Người đang ở với chúng ta ! Chúng ta đừng đi tới tất cả những nấm mồ, ngày hôm nay, đang hứa hẹn với ta chuyện gì, cái gì đẹp đẽ, nhưng rồi thì chẳng cho ta gì cả ! Người hằng sống ! Chúng ta đừng đi tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ! Cảm ơn.
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(23 avril 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/pourquoi-est-ce-que-je-cherche-parmi-les-morts-celui-qui-est-vivant

 

Tuần lễ này, mỗi ngày hãy đọc một đoạn về Phục Sinh
Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ngày thứ hai Phục Sinh

 

Rôma – 21/4/2014 (Zenit.org
Anh chị em hãy nhớ, trong tuần này, mở sách Phúc Âm để đọc những đoạn nói về Phục Sinh mỗi ngày", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắn nhủ trong giờ kinh kính Đức Mẹ, trưa ngày thứ hai Phục Sinh, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh về sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria ở giữa các môn đệ, như nguồn mạch hy vọng và vui mừng.
Sau đây là bản dịch toàn văn lời lẽ của Đức Giáo Hoàng đọc bằng tiếng Ý.
 A.B.
Trước kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến,
Chúc mừng Phục Sinh tốt đẹp "Cristòs anèsti ! – Alethos Nèsti !" "Đức Kitô đã sống lại - Người thật sự đã sống lại !"
Ngài đang ở giữa chúng ta nơi đây, trên quảng trường này.
Tuần này, chúng ta có thể tiếp tục trao đổi những lời chúc tụng Phục Sinh như là ngày đầu : đó là ngày trọng đại Chúa đã làm ra.
Tình cảm nổi trội, toát ra từ những đoạn Tin Mừng về Phục Sinh, là niềm vui đầy kinh ngạc, một sự kinh ngạc to lớn, một niềm vui đến từ bên trong; và trong sách phụng vụ, chúng ta trải nghiệm lại tình trạng tâm thần của các môn đệ trước cái tin mà các phụ nữ báo lại cho các ông : "Chúa Giêsu đã sống lại ! Chúng tôi đã thấy Người".
Hãy để cho trải nghiệm đó, được in trong Phúc Âm, in sâu trong tâm hồn chúng ta, và tỏ hiện ra trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy để cho sự ngạc nhiên vui mừng của ngày Chúa Nhật Phục Sinh tỏa sáng trong tư tưởng chúng ta, trong nhãn quan, trong thái độ, trong cử chỉ và trong lời nói của chúng ta…
Chớ gì chúng ta cũng được sáng láng như thế ! Nhưng không phải là son phấn ! Điều này đến từ trong lòng, từ một con tim được gìm vào nguồn mạch của niềm vui đó, cũng như tâm hồn của bà Mađalêna, người đã khóc lóc cái chết của Chúa và đã không tin con mắt mình khi nhìn thấy Người đã sống lại.
Người nào đã có trải nghiệm này, thì trở thành chứng nhân cho sự sống lại, bởi vì, trong một chiều hướng nào đó, bản thân người đó, dù nam hay nữ, đã được sống lại.
Và rồi, người đó có khả năng mang một "tia sáng" của Đấng Phục Sinh tới những hoàn cảnh khác nhau : những hoàn cảnh hạnh phúc, bằng cách làm cho nó tốt đẹp hơn và giữ cho nó khỏi bị ích kỷ; trong những hoàn cảnh đau buồn, bằng cách mang lại sự an bình và hy vọng.
Điều này có ích lợi cho chúng ta trong tuần này khi cầm sách Phúc Âm để đọc những chương nói về cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, hãy cầm cuốn sách lên. Điều này có ích biết bao cho chúng ta ! Hãy cầm cuốn sách lên, tìm những chương đó mà đọc.
Điều này cũng sẽ có ích lợi cho chúng ta, trong tuần này, khi nghĩ đến niềm vui của Mẹ Maria, Đức Mẹ Chúa Giêsu.
Cũng như sự đau đớn thầm kín trong lòng Mẹ, đau đến độ như gươm đao xuyên thủng tâm hồn, niềm vui của Mẹ cũng thầm kín và sâu đậm đến độ các môn đệ đã có thể đến đong múc nơi Mẹ.
Trải qua kinh nghiệm sự chết và sống lại của Con Mẹ - được thấy, trong đức tin, như sự thể hiện tột cùng của tình yêu Thiên Chúa -, trái tim của Mẹ Maria đã trở thành nguồn mạch của bình an, của an ủi, của lòng thương xót.
Tất cả những đặc quyền của Mẹ chúng ta xuất phát từ sự tham gia của Mẹ vào cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu.
Từ ngày Thứ Sáu cho đến sáng Chúa Nhật, Mẹ đã không mất đi hy vọng : chúng ta đã chiêm ngắm Đức Mẹ Sầu Bi nhưng đồng thời cũng là Đức Mẹ tràn dầy hy vọng.
Chính bởi vậy, Mẹ là Mẹ của tất cả các môn đệ, là Mẹ của Hội Thánh. Mẹ là Mẹ hy vọng.
Chính nơi Mẹ, chứng nhân thầm lặng của cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, mà chúng ta cầu xin để Mẹ đưa chúng ta vào trong niềm vui vượt qua.
Bây giờ chúng ta hãy cầu xin chuyện này bằng kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng, thay cho Kinh Truyền Tin trong mùa Phục Sinh này.
Sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng
Tôi thân mến chào mừng anh chị em, các khách hành hương đến từ Ý và các quốc gia khác để tham gia vào cuộc hội ngộ cầu nguyện này.
Anh chị em hãy nhớ, tuần này, lấy sách Phúc Âm ra, giở các chương nói về phục sinh và hãy đọc mỗi ngày một đoạn trong các chương đó : điều này sẽ có ích lợi trong tuần lễ Chúa Giêsu Phục Sinh này.
Tôi chúc mỗi người trong anh chị em trải qua trong niềm vui và sự bình an ngày thứ hai Thiên Thần này, ngày kéo dài niềm vui sống lại của Chúa Kitô.
Chúc mừng Phục Sinh Thánh cho tất cả anh chị em ! Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Lạc Khai (ghxhcg.com)
(21 avril 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/cette-semaine-lisez-chaque-jour-un-passage-des-recits-de-la-resurrection

 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cầu nguyện
Chúa Kitô Phục Sinh cho những vết thương trên thế giới

Thông Điệp Phục Sinh (toàn văn)  

Rôma – 20/4/2°14 (Zenit.org
Đây là đỉnh cao của Phúa Âm, đây là Tin Mừng tiêu biểu nhất : Chúa Giêsu, Đấng bị Đóng Đinh đã sống lại !", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố trong thông điệp Phục Sinh của ngài, trước khi ban phép lành cho thế giới và cho thành phố - Urbi et orbi - từ trên bao lơn phép lành của Đền Thánh Phêrô, và ngài cầu nguyện với Chúa Kitô cho hòa bình trên toàn thế giới.
Trước đó, Đức Giáo Hoàng đã chủ sự Thánh Lễ Phục Sinh, trong "khu vườn" Phục Sinh đặc biệt nở hoa mỗi năm bởi 30 nhà bán hoa người Hà Lan trên sân thềm Đền Thánh Phêrô, thành một thảm hoa đầy mầu sắc : 2500 bông hoa hồng, 6000 bông thủy tiên đủ mầu và 8000 bông thủy tiên vàng, còn cả 1200 bông uất kim hương đỏ, vàng, trắng, hồng và tím, 2500 bông huệ da hương, bông đỗ quyên, bông mận, bông liên kiều, bông chim thiêng đàng, bông mộc lan, bông cảnh trắng, xanh, hồng, tím, bông rừng nhiệt đới… và trên bao lơn là hoa lan trắng.
Truyền thống bắt đầu từ năm 1985, nhờ ông Nic van der Voort nhân ngày phong chân phước cho cha Titus Bransma : ngày nay nó được tiếp nối bởi em ông Nic là Charles van der Voort. Thật là một sự khó khăn, ông tâm sự với Zenit, cứ mỗi năm phải tính toán chuyện trồng hoa cho ngày chúa nhật Phục Sinh, bất kể thời tiết và nhiệt độ mùa xuân, năm nay có hơi nóng.
Ông đã giải thích rằng hai chiếc xe tải chất đầy ắp hoa lá đã chạy suốt 24 tiếng đồng hồ để lễ Phục Sinh có thể được thể hiện năm nay trong những hương thơm, những hình dáng, những mầu sắc chung quanh bàn thờ, chung quanh ngai Đức Giáo Hoàng, chung quanh bục giảng, chung quanh tượng ảnh Đức Kitô Cứu Thế, chung quanh bức tượng Đức Trinh Nữ và Chúa Hài Đồng.
Đức Giáo Hoàng đã không quên, sau khi ban phép lành, cảm ơn sự thực hiện công trình đặc biệt này.
Một cái đẹp như thế, một sự bùng nổ sự sống như thế, trái ngược với những vết thương trên thế giới mà Đức Giáo Hoàng đã kể ra trong lúc cầu xin quyền lực phục sinh của "Đức Kitô khải hoàn", nhất là cho Cộng Hoà Trung Phi, Nigeria, các nước Phi Châu bị chiến tranh và siêu vi sốt xuất huyết Ebola, nước "Syria thân yêu" (để có "can đảm hòa đàm"), Đất Thánh, Irak, Nam Suđan, Venezuela, Ukraine (để phải "ngăn chặn bạo lực và xây dựng, trong một tinh thần hợp nhất và đối thoại, tương lai của đất nước"), nạn đói, nạn khai thác, nạn nghèo khó, nạn lãng phí, những con người đã bị giam hãm.
Thông điệp Phục Sinh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
« Christus surrexit, venite et videte ! ».
"Đức Kitô sống lại, hãy đến mà xem !"
Anh chị em thân mến, chúc mừng lễ Phục Sinh vui vẻ !
Thông báo của thiên thần với các phụ nữ vang trong Hội Thánh tràn lan trên khắp thế giới : "Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị Đóng Đinh. Người không có ở đây, vì Ngài đã trỗi dậy… Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm" (Mt 28, 5-6).
Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, đây là Tin Mừng tiêu biểu nhất : Chúa Giêsu, Đấng bị Đóng Đinh đã sống lại ! Biến cố này là nền tảng của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta : nếu Đức Kitô không sống lại, Kitô giáo mất đi giá trị của mình; tất cả sứ vụ của Hội Thánh sẽ mất đi đà phấn khởi của mình, bởi vì chính từ chỗ đó mà cái đà này đã ra đi và luôn ra đi tiếp. Thông điệp mà các Kitô hữu mang tới cho thế giới, là như thế này : Chúa Giêsu, Tình Yêu nhập thể, đã chết trên cây Thánh Giá vì tội lỗi của chúng ta, nhưng Thiên Chúa Cha đã làm cho Người sống lại và đã tôn Người lên làm Chúa sự sống và sự chết. Nơi Chúa Giêsu, Tình Yêu đã thắng hận thù, lòng thương xót thắng tội lỗi, cái thiện thắng cái ác, sự thật thắng dối trá, sự sống thắng sự chết.
Vì vậy, chúng ta nói với tất cả mọi người : "Hãy tới và hãy xem !". Ở mỗi hoàn cảnh con người, đánh dấu bởi sự mỏng giòn, bởi tội lỗi và bởi cái chết, Tin Mừng không chỉ là một lời nói, mà là một sự làm chứng cho tình yêu nhưng không và chung thủy : đó là ra khỏi bản thân để đi gặp gỡ người khác, chính là ở gần cạnh với người bị đời làm tổn thương, chính là chia sẻ với người thiếu thốn những thứ cần thiết, chính là sát cánh với người bệnh, người già hay người bị thải loại… "Hãy tới và hãy xem !" : Tình Yêu là mạnh mẽ nhất, Tình Yêu ban cho sự sống, Tình Yêu làm cho hy vọng nở hoa trong sa mạc.
Với niềm xác tín vui tươi trong lòng, hôm nay chúng con cầu xin Chúa, lạy Chúa Phục Sinh !
Xin Chúa giúp chúng con đi tìm Chúa để tất cả chúng con có thể gặp Chúa, biết được chúng con có Cha và chúng con không cảm thấy mình côi cút; chúng con có thể yêu mến Chúa và thờ lậy Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con chiến thắng nạn đói, bị làm trầm trong hơn bởi chiến tranh và bởi những lãng phí khổng lồ mà chúng con thường là tòng phạm.
Xin Chúa làm cho chúng con có khả năng che chở những người không có sức tự vệ, nhất là các em nhỏ, các phụ nữ và những người già, đôi khi bị biến thành những nạn nhân của khai thác và vứt bỏ.
Xin Chúa làm cho chúng con có thể săn sóc những người anh em bị nhiễm dịch Ebola ở Guinea Conakry, ở Sierra Leone và ở Liberia, và những người mắc phải biết bao bệnh tật, cũng đang lan tràn bởi vi không được chữa trị và vì nghèo khó cực độ.
Xin Chúa an ủi tất cả những ai, ngày hôm nay, không thể mừng lễ Phục Sinh với gia đình mình bởi vì bị bắt đi một cách bất công khỏi tình yêu thương của gia đình họ, như nhiều người, linh mục và giáo dân, ở nhiều nơi trên thế giới đang bị giam hãm.
Xin Chúa an ủi những người đã phải để lại quê cha đất tổ của họ để di cư đến những nơi mà họ hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn, có một cuộc sống xứng đáng, và thường là, có thể có tự do tuyên xưng đức tin của mình.
Chúng con khẩn xin Chúa, lạy Chúa Giêsu vinh hiển, xin Chúa hãy chấm dứt mọi cuộc chiến tranh, mọi sự thù địch lớn, nhỏ, cũ hay mới !
Chúng con khẩn xin Chúa, cách riêng, cho nước Syria, nước Syria yên mến, để cho tất cả những ai đang chịu hậu qua của cuộc chiến, có thể nhận được những sự giúp đỡ nhân đạo cần thiết và cho các bên liên hệ đừng sử dung sức mạnh để gieo rắc chết chóc, nhất là đối với thường dân không có sức tự vệ, mà hãy có đảm lược hòa đàm, đang được mong đợi từ quá lâu rồi !
Chúng con cầu xin Chúa hãy an ủi những nạn nhân của bạo lực huynh đệ tương tàn ở Iraq và hộ phù hy vọng được dấy lên bởi sự tiếp nối những cuộc thương thuyết giữa người Do Thái và người Palestine.
Chúng con khẩn cầu Chúa, cho cuộc xung đột tại nước Cộng Hòa Trung Phi được chấm dứt và xin cho những vụ khủng bố dã man trong nhiều vùng ở Nigeria cũng như những bạo lực ở Nam Suđan được chấm dứt.
Chúng con cầu xin Chúa cho mọi người hãy hướng về sự hòa giải và hòa đồng huynh đệ ở Venezuela.
Nhờ sự Phục Sinh của Chúa mà chúng con cử hành năm nay cùng với các Giáo Hội theo lịch juliano, chúng con cầu xin Chúa soi sáng và gợi ý cho những sáng kiến hòa bình ở Ukraina, để các bên liên hệ, với sự ủng hộ của Cộng Đồng quốc tế, thực hiện mọi nỗ lực nhằm ngăn chặn bạo lực và, trong tinh thần đoàn kết và đối thoại, xây dựng tương lai của đất nước.
Lậy Chúa, chúng con khẩn xin Chúa là Đấng chiến thắng sự chết, cho mọi dân tộc trên Trái Đất, xin Chúa ban cho chúng con sự sống, xin Chúa ban cho chúng con bình an của Chúa !
[Bản gốc bằng tiếng Pháp - Mạc Khải phỏng dịch]
http://www.zenit.org/fr/articles/le-pape-francois-invoque-le-christ-ressuscite-pour-les-plaies-du-monde

 

Chiến thắng của Thiên Chúa trong thất bại biểu kiến
Bài giáo lý về Tuần Thánh (toàn văn)

 

Rôma – 16/4/2014 (Zenit.org
"Tuần lễ này, sẽ có ích cho tất cả chúng ta là nhìn ngắm cây Thánh Giá, là ôm hôn những vết thương của Chúa Giêsu, là ôm những vết thương này trên cây Thánh Giá. Ngài đã nhận lấy tất cả đau khổ của con người, Ngài đã mặc lấy sự đau đớn này", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Đức Giáo Hoàng đã dành bài giáo lý của ngài sáng thứ tư để nói về Tuần Thánh, và nhấn mạnh về "chiến thắng của Thiên Chúa trong thất bại" : "Khi tất cả dường như đã thất bại, khi không còn ai (…), chính lúc đó Thiên Chúa can thiệp với quyền lực của Phục Sinh (…) Vào lúc đen tối nhất, Thiên Chúa can thiệp và làm cho sống lại".
Dưới đây là bản dịch toàn văn nguyên bản bằng tiéng Ý.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Tuần Thánh
Thân chào quý anh chị em !
Hôm nay, giữa Tuần Thánh, sách phụng vụ cho chúng ta thấy một hồi buồn thảm : câu chuyện phản bội của Giu-đa, hắn đi tới nơi những thủ lãnh của đền thờ để mặc cả và nộp Thầy mình cho họ : "Các ông muốn cho tôi bao nhiêu nếu tôi nộp người đó cho các ông ?" Vào lúc đó, Chúa Giêsu đã có một cái giá. Hành động thảm thương này đánh dấu sự khởi đầu của cuộc Thương Khó của Đức Kitô , một hành trình đau đớn mà Ngài đã chọn lấy trong tự do tuyệt đối. Ngài đã đích thân phán rõ : "Tôi hy sinh mạng sống mình… mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy" (Ga 10, 17-18). Và như vậy, với sự phản bội này, bắt đầu hành trình sỉ nhục, trần trụi của Chúa Giêsu. Giống như Ngài ở ngoài chợ : đáng giá 30 đồng bạc… con người Giêsu đó, một khi đã đi vào con đường sỉ nhục và trần trụi, Ngài đi cho đến cùng.
Chúa Giêsu đã đạt đến sự bị sỉ nhục tột cùng với "cái chết trên cây Thánh Giá". Đó là cái chết sấu xa nhất trong những cái chết, cái chết được dành cho những kẻ nô lệ và những kẻ côn đồ. Chúa Giêsu được coi như một tiên tri, nhưng Ngài chết như một kẻ tội đồ. Khi nhìn Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta coi như trong một tấm gương những đau khổ của nhân loại và chúng ta tìm thấy câu trả lời từ Thiên Chúa cho mầu nhiệm sự ác, mầu nhiệm sự đau khổ, mầu nhiệm sự chết. Nhiều khi chúng ta cảm thấy ghê tởm trước điều ác và trước sự đau khổ vây quanh chúng ta và chúng ta tự hỏi : "Tại sao Thiên Chúa lại để xẩy ra chuyện này ?". Đó là một vết thương sâu hoắm đối với chúng ta khi thấy sự đau khổ và cái chết, đặc biệt là cái chết của những người vô tội. Khi chúng ta thấy các em nhỏ đau khổ, điều này làm cho trái tim chúng ta bị thương tích : đó là mầu nhiệm sự ác. Và Chúa Giêsu đã lãnh nhận tất cả cái ác này, tất cả cái đau khổ này. Tuần này, sẽ rất có ích cho tất cả chúng ta là nhìn lên Thánh Giá, là ôm hôn những thương tích của Chúa Giêsu, là ôm hôn những thương tích đó trên cây Thánh Giá. Ngài đã lãnh nhận lấy tất cả sự đau khổ của con người, Ngài đã mặc lấy sự đau khổ này đó.
Chúng ta mong rằng, trong sự toàn năng của Ngài, Thiên Chúa sẽ chiến thắng bất công, điều ác, tội lỗi và đau khổ bởi một sự chiến thắng vẻ vang của Thiên Chúa. Trái lại, Thiên Chúa chỉ cho chúng ta một cách chiến thắng khiêm nhượng mà, dưới nhãn quan con người, dường như lại là một thất bại. Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Đấng chiến thắng trong thất bại ! Quả vậy, Con Thiên Chúa, xuất hiện trên cây Thánh Giá như một người bị thua cuộc : Ngài đau khổ, Ngài bị phản bội, thóa mạ và cuối cùng Ngài chết. Nhưng Chúa Giêsu đã để cho cái ác ra sức làm khổ Ngài và Ngài đã gánh lấy nó để thắng nó. Cuộc thương khó của Ngài không phải là một tai nạn; cái chết của Ngài –cái chết này – đã được "viết trước". Thật ra, chúng ta không tìm được nhiều giải thích. Đây quả là một mầu nhiệm gây ngộ nhận, mầu nhiệm khiêm nhường lớn lao của Thiên Chúa : "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài" (Ga 3, 16). Tuần này, chúng ta hãy nghĩ nhiều đến sự đau đớn của Chúa Giêsu và hãy tự nhủ rằng : đó là cho chính tôi. Cho dù trên thế gian chỉ có một mình tôi, thì Ngài cũng làm như vậy. Ngài đã làm điều đó cho tôi. Chúng ta hãy ôm hôn Thánh Giá và hãy nói : Cảm tạ Chúa Giêsu, Ngài làm cho con, cho con !
Khi tất cả dường như sụp đổ, khi không còn ai nữa bởi vì chúng sẽ đánh "người chăn chiên và đàn chiên sẽ tan tác" (Mt 26, 31), thì chính lúc đó Thiên Chúa can thiệp với quyền phép Phục Sinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc có hậu của một câu chuyện ngụ ngôn đẹp, không phải là "happy end" của một cuốn phim; mà chính là sự can thiệp của Thiên Chúa Cha, ở chính nơi mà niềm hy vọng của con người bị đổ vỡ. Vào lúc mà tất cả dường như sụp đổ, vào lúc đau đớn, khi bao người cảm thấy như một nhu cầu phải bước xuống khỏi cây thập tự giá, thì đó chính là cái lúc gần nhất với sự sống lại. Màn đêm trở nên đen tối hơn chính là lúc trước khi bình minh ló dạng. Vào lúc đen tối nhất, Thiên Chúa can thiệp và làm sống lại.
Chúa Giêsu, Đấng đã chọn đi qua con đường này, kêu gọi chúng ta đi theo Ngài trên cùng một con đường nhục nhằn. Nhiều lúc trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta không tìm được lối thoát nào cho những khó khăn của chúng ta, khi chúng ta chìm vào trong bóng tối dầy đặc nhất, chính là lúc nhục nhã, trần trụi nhất của chúng ta, lúc mà chúng ta nghiệm thấy rằng chúng ta mỏng giòn và tội lỗi. Chính đó là lúc mà chúng ta phải không được che dấu sự thất bại của mình, mà phải tin tưởng mở ra với niềm hy vọng vào Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã làm.
Anh chị em thân mến, tuần này, thật là có ích cho chúng ta nếu chúng ta cầm lấy cây Thánh Giá trên tay và năng hôn lên Thánh Giá, trong lòng thưa với Chúa rằng "Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa". Amen
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(16 avril 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-victoire-de-dieu-dans-l-echec-apparent

 

Đức Giáo Hoàng xác nhận ngài sẽ gặp gỡ giới trẻ Á Châu
Kinh Truyền Tin ngày 13 tháng 4 năm 2014 – Chúa Nhật Lễ Lá  

Rôma – 13/4/2014 (Zenit.org
Đức Giáo Hoàng Phanxicô xác nhận cuộc gặp gỡ của ngài với giới trẻ Á Châu, nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ VI, tại Daejeon, Nam Hàn, ngày 15/8/2014.
Kết thúc Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá và Thương Khó, ngày 13/4/2013 trên quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chủ sự Kinh Truyền Tin và nhắc tới Ngày Giới Trẻ Thế Giới : Quả là Lễ Lá hàng năm trùng hợp với Ngày Giới Trẻ Thế Giới.
Đức Giáo Hoàng đã xác nhận rằng ĐGH Gioan Phaolô II, người khởi xướng các Ngày Giới Trẻ Thế Giới, đã trở thành vị thánh tổ của Ngày này; trong sự hiệp thông các thánh, ngài sẽ tiếp tục đối với giới trẻ thế giới là một người cha và một người bạn.
Cuộc cử hành Thánh Lễ năm nay đã được đánh dấu bởi sự trân trọng trao lại Thánh Giá JMJ và Tượng Ảnh "Đức Mẹ Cứu Độ Dân Rôma", từ tay của một phái đoàn người trẻ Brasil, cho những người trẻ Ba Lan, để họ sẽ mang theo trên đường hành hương tới Cracovie, chuẩn bị cho Ngày JMJ năm 2016.
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Kết thúc cuộc cử hành này, tôi gửi lời chào đặc biệt đến 250 phái đoàn - giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – đã tham dự cuộc gặp gỡ về các ngày JMJ được tổ chức bởi Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân. Hành trình chuẩn bị cuộc tập họp toàn cầu sắp tới, sẽ diễn ra vào tháng 7/2016 tại Cracovie và sẽ có chủ đề "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (Mt 5, 7), như thế là đã bắt đầu.
Lát nữa đây, người trẻ Brasil sẽ trao cho người trẻ Ba Lan Cây Thánh Giá JMJ. Chính Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II là đấng đã trao Cây Thánh Giá này cho giới trẻ cách đây 30 năm : ngài đã yêu cầu họ mang đến cho toàn thế giới như một dấu hiệu tình yêu của Chúa Kitô đối với nhân loại.
Ngày 27 tháng 4 sắp tới đây, chúng ta sẽ vui mừng cử hành lễ tuyên thánh cho Đức Giáo Hoàng này và cho ĐGH Gioan XXIII. ĐGH Gioan Phaolô II, đã là người khởi xướng các ngày JMJ, và đã trở thành vị thánh tổ vĩ đại của những ngày này; trong sự hiệp thông của các thánh, ngài sẽ tiếp tục, đối với giới trẻ trên thế giới, là một người cha, một người bạn.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa để Thánh Giá và Tượng Ảnh Đức Mẹ Cứu Độ Dân Rôma, là những dấu hiệu của hỵ vọng cho tất cả mọi người và tỏ ra cho thế giới tình yêu toàn thắng của Đức Kitô.
[Trao Thánh Giá]
Tôi chào mừng cư dân Rôma và các khách hành hương ! Tôi đặc biệt chào mừng các phái đoàn đến từ Rio de Janeiro và từ Cracovie, dưới sự hướng dẫn của các tổng giám mục của họ, các Đức Hồng Y Orani João Tempesta và Stanislas Dziwwisz.
Trong khuôn khổ này, tôi vui mừng thông báo, nếu điều này đẹp lòng Thiên Chúa, là ngày 15/8 tới đây, tại Daejeon, ở Đại Hàn Dân Quốc, tôi sẽ gặp gỡ với giới trẻ Á Châu trong cuộc tập hợp lục địa lớn lao của họ.
Bây giờ, chúng ta hãy hướng về Đức Mẹ Đồng Trinh, để cầu xin Mẹ phù giúp chúng ta luôn vững vàng đức tin, noi theo gương mẫu là Chúa Giêsu.
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (ghxhcg.com)
(13 avril 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-pape-confirme-sa-rencontre-avec-la-jeunesse-d-asie

 

"Bao lâu chúng ta tích lũy cho riêng mình
thì sẽ không có công bằng"

Kinh Truyền Tin ngày 02 tháng 3 năm 2014 (toàn văn)  

Rôma – 02/03/2014 (Zenit.org
Bao lâu mỗi người còn tìm cách tích lũy của cải cho riêng mình, sẽ không bao giờ có công bằng. Trái lại, chúng ta trông cậy vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa, chúng ta cùng tìm kiếm Nước Ngài, lúc đó không ai sẽ thiếu thốn những điều cần thiết để sống xứng đáng", Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định.
Mặc dù trời mưa, quảng trường Thánh Phêrô đen nghịt khách hành hương đến tận dãy cột lớn, sáng chúa nhật này 02/03/2014, để đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Phanxicô.
"Không ai có thể làm tôi hai chủ : Thiên Chúa và tiền bạc", ngài nhắc nhở khi bắt đầu đọc kinh kính Đức Mẹ, vì "một trái tim bị chiếm hữu bởi sự khao khát sở hữu là một trái tim đã chứa đầy khát vọng sở hữu, nhưng trống rỗng Thiên Chúa".
Một lần nữa ngài kêu gọi hãy cầu nguyện cho hòa bình ở Ukraine, Đức Giáo Hoàng cũng đã nhắc đến Mùa Chay, sẽ bắt đầu vào ngày 05/03/2014, và mời gọi hãy "có lòng liên đới huynh đệ với những người đang bị thử thách trong sự nghèo khó và trong chiến tranh tàn khốc".
Lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin (bằng tiếng Ý)
Thân chào quý anh chị em !
Trong trung tâm của phụng vụ chúa nhật này, chúng ta tìm thấy một trong những chân lý mang tính trấn an nhất : Quan Phòng của Thiên Chúa. Tiên tri I-sa-ia trình bày Quan Phòng với hình ảnh của tình yêu mẫu tử đầy êm ái, và ngài nói thế này : "Có một người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49, 15). Thật là đẹp biết bao ! Thiên Chúa không quên chúng ta, Ngài không quên bất cứ ai trong chúng ta ! Ngài không quên bất cứ ai trong chúng ta, cả tên họ mỗi người. Ngài yêu thương và không quên chúng ta. Viễn cảnh đẹp biết bao… lời mời gọi trông cậy vào Thiên Chúa đã có một đoạn song song trong bài trích Tin Mừng theo Thánh Mátthêu : "Hãy xem chim trời -Chúa Giêsu phán- : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng… Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào : chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy" (Mt 6, 26. 28-29).
Nhưng khi nghĩ đến tất cả những người đang phải sống trong những điều kiện bấp bênh, hay dứt khoát trong sự bần cùng khiến cho nhân phẩm của họ bị xúc phạm, những lời này của Chúa Giêsu có vẻ như là trừu tượng, nếu không muốn nói là lừa mị. Nhưng trong thực tế, những lời này chưa bao giờ mang tính thời sự như thế ! Những lời này nhắc nhở chúng ta rằng không thể làm tôi hai chủ : Thiên Chúa và của cải. Bao lâu mỗi người tìm cách tích thu cho riêng mình, thì sẽ không bao giờ có công bằng. Chúng ta phải nghe rõ điều này. Bao lâu mỗi người tìm cách tích thu cho riêng mình, thì sẽ không bao giờ có công bằng. Trái lại, nếu khi trông cậy vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa, chúng ta cùng tìm kiếm Nước Ngài, như thế, không ai sẽ thiếu thốn cái cần thiết để sinh sống một cách xứng đáng.
Một trái tim bị chiếm hữu bởi sự khao khát sở hữu là một trái tim đã chứa đầy khát vọng sở hữu, nhưng trống rỗng Thiên Chúa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo người giầu có, bởi đối với họ, nguy cơ đặt để an toàn của họ trong của cải đời này là to lớn. Trong lúc đó, sự an toàn, an toàn bền vững là ở nơi Thiên Chúa. Trong một trái tim mà của cải chiếm hữu, sẽ không còn bao nhiêu chỗ cho đức tin : tất cả đã bị chiếm hữu bởi của cải, không còn chỗ nào cho đức tin. Trái lại, nếu người ta dành cho Thiên Chúa một chỗ vốn là cố hữu của Ngài, nghĩa là chỗ đầu tiên, lúc đó tình yêu của Ngài cũng chỉ dẫn chia sẻ của cải, đưa của cải vào những dự án liên đới và phát triển, như được biểu lộ bởi bao tấm gương, kể cả mới đây, trong lịch sử của Giáo Hội. Và như vậy, Quan Phòng của Thiên Chúa thông qua sự phục vụ người khác của chúng ta, sự chia sẻ với người khác của chúng ta. Khi mà có ai không tích lũy của cải chỉ để cho mình mà đem ra phục vu cho người khác, khi đó Quan Phòng của Thiên Chúa hiện hình trong cử chỉ liên đới đó. Nếu trái lại ai kia vơ vét chỉ cho riêng mình, điều gì sẽ xẩy ra cho hắn khi hắn được Thiên Chúa gọi đến ? Hắn sẽ không thể mang những của cải đó theo, bởi vì –anh chị em thấy đó- tấm vải liệm không có túi ! Tốt hơn hết là chia sẻ, bởi vì trên Trời, chúng ta chỉ mang theo những gì chúng ta đã chia sẻ với những người khác.
Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho có vẻ ít thực tế, vì tư tưởng chung và những vấn đề của khủng hoảng kinh tế; nhưng, nếu suy nghĩ kỹ, nó đặt chúng ta lại vào đúng thang giá trị. Ngài phán : "Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ?" (Mt 6, 25). Để cho không ai thiếu miếng ăn, thức uống, quần áo, nhà ở, việc làm hay sức khỏe, tất cả mọi người, chúng ta phải công nhận mình là con cái của Cha trên Trời và như thế, là anh em với chúng ta, và phải có cách hành sử như vậy. Tôi đã nhắc lại trong Sứ Điệp Hòa Binh ngày 01/01/2014 : con đường dẫn đến hòa bình là tình huynh đệ ; cùng đi cùng chia sẽ mọi thứ.
Dưới ánh sáng Lời Chúa ngày chúa nhật này, chúng ta hãy khẩn xin Đức Trinh Nữ Maria như là Mẹ của Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ đời sống chúng ta, con đường của Giáo Hội và của nhân loại. Đặc biệt, chúng ta hãy khẩn xin Mẹ chuyển cầu để tất cả chúng ta nỗ lực sống trong một cách sống đơn giản và lành mạnh, với cái nhìn bận tâm đến những nhu cầu của những người anh em nghèo khó nhất.
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin (bằng tiếng Ý)
Anh chị em thân mến,
Tôi xin anh chị em cầu nguyện thêm nữa cho Ukraine, đang sống trong một tình trạng tế nhị : ước mong tất cả các phe nhóm của đất nước này hãy làm tất cả để vượt lên những hiểu lầm và để cùng nhau xây dựng tương lai cho quốc gia, tôi gửi đến cộng đồng quốc tế một lời kêu gọi đầy phiền não, để cộng đồng này ủng hộ mọi sáng kiến giúp cho cuộc đối thoại và hòa hợp.
Tôi gửi lời thân ái chào mừng các gia đình, các giáo xứ, các hội đoàn và tất cả các khách hành hương đến từ Ý và từ các quốc gia khác.
Tôi chào mừng các tín hữu Tây Ban Nha đến từ các giáo phận Valladolid và Ibiza; cũng như những người Ý của Amantea, Brescia, Crémone, Terni, Lonnate và Ferno, và ban thánh ca Tassullo.
Tôi chào mừng nhiều nhóm bạn trẻ của các giáo phận Côme, Vicence, Padova, Lodi, Cuneo và Crémone. Các bạn trẻ thân mến, có nhiều người trong các bạn mới nhận lãnh bí tích Thêm Sức gần đây hay đang được chuẩn bị để nhận lãnh bí tích này, các bạn khác sẽ tuyên xưng đức tin, và các bạn đã tích cực trong các phòng tuyên úy của các bạn. Các bạn trẻ thân mến, mong rằng quan hệ của các bạn với Chúa Giêsu trở nên mãi mãi bền chặt hơn, sâu đậm hơn, để mang nhiều hoa trái ! Các bạn trẻ ! Hãy tiếp tục !
Tuần lễ này chúng ta sẽ bắt đầu Mùa Chay, đây là con đường của Dân Thiên Chúa hướng tới Lễ Vượt Qua, một con đường trở lại, con đường chiến đấu với ác thần bằng vũ khí là cầu nguyện, ăn chay, lòng thương xót. Nhân loại cần công lý, cần hòa giải, cần hòa bình, và nhân loại chỉ có thể tìm được những thứ đó khi hết lòng quay lại với Thiên Chúa, vốn là nguồn mạch những thứ đó. Tất cả chúng ta nữa, chúng ta cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy bước vào Mùa Chay với tinh thần thờ lậy Thiên Chúa và liên đới huynh đệ với những người, trong thời điểm này, đang bị thử thách nhiều bởi sự nghèo khó và bởi các cuộc chiến tranh tàn khốc.
Tôi chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
( 2 mars 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/tant-que-l-on-accumulera-pour-soi-il-n-y-aura-pas-de-justice

 

Hãy có thói quen mời linh mục tới bên cạnh bệnh nhân
Bài giáo lý về Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân ngày 26 tháng 02 năm 20114 (toàn văn)


 

Roma – 27/02/2014 (Zenit.org
Bí tích này là sự bảo đảm rằng Chúa Giêsu gần gũi với người bệnh và cũng với người già cả, bởi vì mỗi người già cả, mỗi người trên 65 tuổi, có thể nhận lãnh bí tích này, qua đó đích thân Chúa Giêsu đến gần chúng ta", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố về bí tích xức dầu bệnh nhân là chủ đề bài giáo lý ngày thứ tư tuần này, 26/02/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Thánh Cha tiếc rằng người ta còn tin rằng hễ cứ gọi linh mục đến giường bệnh của ai đó là sẽ dẫn tới sau đó phải gọi "nhà đòn" : ngài kêu gọi các linh mục hãy thăm viếng bệnh nhân, và gia đình hãy mời linh mục để ban bí tích xức dầu bệnh nhân, hay xức dầu người già, bởi vì sự thăm viếng của linh mục và bí tích, chính là một cuộc viếng thăm của Đức Giêsu Kitô : "Niềm an ủi to lớn nhất đến từ sự kiện là chính đích thân Chúa Giêsu hiện thân trong bí tích, Ngài nắm tay chúng ta, Ngài vuốt ve chúng ta như Ngài vuốt ve những bệnh nhân và nhắc nhở chúng ta là từ nay, chúng ta thuộc về Ngài và không có gì -kể cả sự ác và sự chết- có thể phân rẽ chúng ta ra với Ngài được.
Ngài mời gọi hãy có thói quen mời linh mục đến với bệnh nhân : Chúng ta hãy có tập quán này là mời linh mục, đưa linh mục đến để ngài ban cho các bệnh nhân (…) và cũng cho những người già cả của chúng ta, bí tích này, niềm an ủi này, sức mạnh này của Chúa Giêsu để tiếp tục đi tới ! Chúng ta hãy làm đi !"
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý do Đức Giáo Hoàng tuyên đọc bằng tiếng Ý
A.B.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
Thân chào quý anh chị em thân mến !
Hôm nay, tôi muốn nói với anh chị em về bí tích Xức Dầu bệnh nhân, là bí tích cho phép chúng ta sờ mó được lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với con ngươòi. Nhày xưa, người ta gọi bí tích này là "xức dầu cuối cùng", bởi vì bí tích này được coi như sự an ủi thiêng liêng và lúc lâm chung. Trong lúc đó, nói về "Xức dầu bệnh nhân" giúp cho chúng ta mở rộng tầm nhìn của chúng ta về kinh nghiệm về bệnh hoạn và đau ốm, ra chân trời lòng thương xót của Thiên Chúa.
1. Có một hình tượng Thánh Kinh diễn tả trong cả chiều sâu của nó mầu nhiệm đang chói sáng qua Xức Dầu Bệnh Nhân là dụ ngôn "Người Samari Tốt Lành" trong Tin Mừng Thánh Luca (Lc 10, 30-35). Mỗi lần chúng ta cử hành bí tích này, Chúa Giêsu, trong con người vị linh mục, tới gần những người đang chịu đau đớn và lâm trọng bệnh hay đang già yếu. Dụ ngôn người Samari tốt lành kể rằng người này săn sóc nạn nhân, bằng cách đổ dầu và rượu trên các vết thương của nạn nhân. Dầu khiến chúng ta nghĩ tới đến dầu hàng năm được Đức Giám Mục làm phép, trong Lễ Truyền Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh, chính là để xức cho người lâm bệnh. Còn rượu là dấu chỉ của tình yêu và ân điển của Đức Kitô tuôn chảy từ sự hiến ban mạng sống Ngài cho chúng ta và biểu lộ trong tất cả sự phong phú của chúng trong đời sống bí tích của Giáo Hội. Sau cùng, người bệnh được gửi gấm cho chủ quán trọ, để ông ta tiếp tục săn sóc, bất kể tốn kém.  Bây giờ, ai là cái người chủ quán trọ này ? Chính là Giáo Hội, là cộng đoàn Kitô hữu, chính là chúng ta, là những người mỗi ngày được Chúa Giêsu gửi gấm những người bị bệnh, trong thể xác hay trong tinh thần, để cho chúng ta tiếp tục đổ trên người đó, bất kể bao nhiêu, tất cả lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài.
2. Sứ mạng này được tái xác nhận cách rõ ràng và chính xác trong thư của Thánh Giacôbê, trong đó thánh nhân căn dặn : "Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các Kỳ Mục của Hội Thánh đến : họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy và, nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (Gc 5, 14-15). Như vậy đây là nghi thức đã có từ thời các Thánh Tông Đồ. Quả vậy, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài phải có cùng sự đặc biệt yêu thương những người bệnh hoạn và những người đau ốm và Ngài đã truyền đạt cho các ông khả năng và bổn phận phải tiếp tục trải rộng ra, nhân danh Ngài và theo tấm lòng Ngài, sự an ủi và bình yên này, qua ơn đặc sủng của bí tích này. Nhưng điều này không thể khiến chúng ta rơi vào sự ám ảnh đi tìm kiếm phép lạ hay yên trí là luôn có được, hay dù sao cũng có cách chữa lành. Bí tích này là một sự bảo đảm rằng Chúa Giêsu gần gũi với người bệnh cũng như người già nua, mỗi người trên 65 tuổi, đều có thể lãnh nhận được bí tích này, nhờ đó chính Chúa Giêsu tới gần chúng ta.
3. Khi có ai đó bị bệnh, thỉnh thoảng có người nói : "hãy gọi cho linh mục để ngài đến". "Không, điều này xui lắm, đừng gọi", hay còn là "người bệnh sẽ lo sợ". Tại sao chúng ta lại nghĩ như thế ? Bởi vì cũng có người nghĩ rằng sau linh mục là nhà đòn sẽ đến. Và điều này không đúng. Vị linh mục đến để giúp đỡ người bệnh hay người già yếu, vì thế nên sự thăm viếng người bệnh của các linh mục là quan trọng. Phải gọi cho linh mục, mời ngài tới bên người bệnh và thưa với ngài "xin mời cha đến để ban phép xức đầu và phép lành cho người bệnh". Chính đích thân Chúa Giêsu tới để nâng đỡ người bệnh, để ban cho sức mạnh, để ban cho niềm hy vọng, để giúp đỡ người bệnh; và cũng để tha thứ tội lỗi cho người bệnh. Và đó thật là đẹp ! Và đừng nghĩ đây là một điều kiêng kỵ, bởi vì luôn luôn là tốt đẹp khi biết rằng vào lúc đau buồn và bệnh hoạn, chúng ta không bị đơn độc : vị linh mục và những người hiện diện trong nghi thức Xức Dầu Bệnh Nhân, thực chất tượng trưng toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, như một thân thể duy nhất, tụ họp chung quanh người đang chịu đau đớn và chung quanh những thân nhân, nuôi dưỡng trong họ đức tin và niềm hy vọng, và nâng đỡ họ bằng cầu nguyện và tình huynh đệ nồng ấm. Nhưng sự an ủi lớn lao nhất đến từ sự kiện là chính Chúa Giêsu đích thân hiện hình trong bí tích, Ngài nắm tay chúng ta, vuốt ve chúng ta như Ngài đã làm với những người bệnh và nhắc cho chúng ta rằng từ nay chúng ta thuộc về ngài và không có gì -kể cả cái ác và cái chết- và không bao giờ chia cách chúng ta với Ngài được. Liệu chúng ta có cái tập quán gọi linh mục, mời ngài đến để ban cho các bệnh nhân của chúng ta –tôi không nói những bệnh nhân bị cảm cúm, trong ba hay bốn ngày, mà khi có một căn bệnh trầm trọng- và cũng cho cả những cụ già của chúng ta, bí tích này, sự an ủi này, sức mạnh này của Chúa Giêsu để tiếp tục đi tới không ? Chúng ta hãy làm như vậy !
Bản dịch tiếng Pháp : Océane Le Gall (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(27 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/prendre-l-habitude-de-faire-venir-le-pretre-aupres-des-malades

 

Tông Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các gia đình
Kêu gọi cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10/2014

 

Rôma – 25/02/2014 (Zenit.org
Tôi xin các gia đinh hãy tích cực cầu nguyện Chúa Thánh Thần, để Ngài soi sáng các Thượng Phụ tham dự Thượng Hội Đồng"và để " Giáo Hội có những phương tiện mục vụ thích hợp nhằm giúp đỡ các gia đình đương đầu với những thách đố hiện tại với ánh sáng và sức mạnh xuất phát từ Phúc Âm" : Đó là lời hô hào của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong một tông thư gửi các gia đình, được công bố ngày hôm nay, 25/02/2014.
Đức Giáo Hoàng nhắc tới các biến cố sắp tới của Giáo Hội sẽ diễn ra chung quanh vấn đề gia đình, trong đó có Hội Nghị Khoáng Đại bất thường của Thượng Hội Đồng các Giám Mục, được triệu tập vào tháng 10 năm 2014, trên tiêu đề "Những thách thức mục vụ của gia đình trong bối cảnh Phúc Âm hóa".
Ngài nhấn mạnh cái đẹp của đời sống gia đình được sống trong đức tin : "Chúa Giêsu làm cho các thế hệ gặp gỡ nhau và gắn kết với nhau ! Ngài là nguồn mạch bất tận của tình yêu này luôn chiến thắng mọi sự đóng cửa, mọi sự cô đơn, mọi sự buồn rầu…
Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các gia đình
Các gia đình thân mến,
Tôi đến trước cửa nhà quý anh chị em để nói về một biến cố, như đã biết, sẽ diễn ra vào tháng 10 sắp tới đây tại Vatican. Đó là Đại Hội Khoáng Đại bất thường của Thượng Hội Đồng các Giám Mục được triệu tập để bàn thảo về chủ đề : "Những thách thức mục vụ của gia đình trong bối cảnh Phúc Âm hóa". Ngày hôm nay, Giáo Hội được kêu gọi phải loan truyền Phúc Âm trong lúc cũng phải đương đầu với những khẩn cấp mục vụ mới liên quan đến gia đình.
Cuộc hẹn hò quan trọng này kéo theo toàn thể Dân Thiên Chúa, các giám mục, các linh mục, những người tận hiến và các tín hữu giáo dân của các Giáo Hội riêng biệt trên toàn thế giới, đang tham gia tích cực vào việc chuẩn bị bằng những đề nghị cụ thể và bằng sự dâng hiến lời cầu nguyện không thể thiếu được. Sự nâng đỡ của lời cầu nguyện, hơn bao giờ hết, tỏ ra rất cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt từ phía anh chị em, hỡi các gia đình thân mến. Quả vậy, Hội Nghị Khoáng Đại Thượng Hội Đồng được cống hiến cách đặc biệt cho quý anh chị em, cho ơn gọi của quý anh chị em và cho sứ vụ của anh chị em trong Hội Thánh và trong xã hội, cho những vấn đề hôn nhân, vấn đề đời sống gia đình, vấn đề giáo dục con cái, và cho vai trò của các gia đình trong sứ vụ của Giáo Hội. Vì thế, tôi xin quý anh chị em hãy sốt sắng cầu nguyện Chúa Thánh Thần, để Ngài soi sáng các Thượng Phụ Công Nghị và dẫn dắt các ngài trong nhiệm vụ khắt khe của các ngài. Như quý anh chị em đã biết, Hội Nghị bất thường kỳ này sẽ được tiếp nối, năm tới, bởi Hội Nghị thường xuyên, cũng trên chủ đề gia đình. Và, trong bối cảnh này, vào tháng 9/2015 cũng sẽ diễn ra Cuộc Hội Ngộ Thế Giới các Gia Đình tại Philadelphia. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để, qua những biến cố này, Giáo Hội hoàn tất được một linh đạo phân định chính đáng và để Giáo Hội có những phương tiện thích hợp để giúp đỡ các gia đình đương đầu với những thách thức hiện nay với ánh sáng và sức mạnh đến từ Phúc Âm.
Tôi viết cho quý anh chị em thư này vào đúng ngày lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Thánh Sử Gia Luca kể rằng Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, theo Luật Mô-sê, đã đem Con tới Đền Thánh để tiến dâng lên Chúa, và rằng có hai người lớn tuổi, ông Si-mê-ông và bà Anna, được Chúa Thánh Thần linh báo, ông bà đã tới gặp các Ngài và đã nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Mê-sia (x. Lc, 22-38). Ông Si-mê-ông đã ẵm Ngài trên tay và tạ ơn Thiên Chúa bởi vì cuối cùng ông đã "nhìn thấy" sự cứu độ; Bà Anna, dù tuổi đã cao, cũng gom hết sức lực để nói về Hài Nhi với hết cả mọi người. Đó là một hình ảnh đẹp : hai vợ chồng trẻ và hai người già, tập họp lại với nhau bởi Chúa Giêsu. Thật vậy, Chúa Giêsu làm cho các thế hệ gặp gỡ nhau và nối kết các thế hệ ! Ngài là nguồn mạch bất tận của tình yêu đã chiến thắng mọi sự đóng cửa, mọi sự cô đơn, mọi sự buồn bã. Trên con đường gia đình, quý anh chị em đã chia sẻ với nhau nhiều khoảnh khắc tốt đẹp : các bữa ăn, lúc nghỉ ngơi, lúc làm việc nhà, lúc giải trí, lúc cầu nguyện, các chuyến du lịch và các cuộc hành hương, những lúc hoạt động tương trợ… Tuy vậy, nếu thiếu đi tình yêu, sẽ thiếu mất niềm vui, và tình yêu đích thực chính là Chúa Giêsu ban cho chúng ta : Ngài ban cho chúng ta Lời Ngài, để soi sáng con đường chúng ta đi; chính Ngài nâng đỡ những mệt mỏi hàng ngày trên con đường của chúng ta.
Các gia đình thân mến, lời cầu nguyện của quý anh chị em cho Thượng Hội Đồng các Giám Mục sẽ là một kho tàng làm giầu cho Giáo Hội. Tôi cảm ơn quý anh chị em; tôi yêu cầu quý anh chị em cũng hãy cầu nguyện cho tôi, để tôi có thể phục vụ Dân Thiên Chúa trong chân lý và trong bác ái. Xin cho sự chở che của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse đồng hành với tất cả quý anh chị em luôn mãi và giúp quý anh chị em tiến bước, hiệp nhất trong tình yêu và trong phục vụ lẫn nhau. Với tất cả tấm lòng, tôi khẩn cầu phép lành của Chúa xuống cho mỗi gia đình.
Vatican, ngày 02 tháng 02 năm 2014-02-25
Lễ Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh
FRANCISCUS
(25 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/lettre-du-pape-francois-aux-familles

 

Phục vụ sự hiệp nhất của Giáo Hội, ơn gọi của các Đức Hồng Y
Huấn đức giờ Kinh Truyền Tin ngày 23 tháng 02 năm 2014 

Rôma – 23/02/2014 (Zenit.org)
Đức Thánh Cha Phanxicô cầu cho các Đức Hồng Y và cho chính mình được ơn phục vụ "sự hiệp nhất của Giáo Hội".
Đức Thánh Cha Phanxicô quả thật đã chủ sự giờ Kinh Truyền Tin buổi trưa ngày chúa nhật 23/02/2014 này, từ cửa sổ văn phòng của dinh Giáo Hoàng mở ra quảng trường Thánh Phêrô, trước hàng chục ngàn khách hành hương.
"Xin Chúa ban cho chúng con ơn được làm việc cho sự hiệp nhất của Giáo Hội, được xây dựng sự hiệp nhất này, bởi vì sự hiệp nhất quan trọng hơn những tranh chấp ! Sự hiệp nhất của Hội Thánh là của Đức Kitô, tranh chấp là những vấn đề không phải từ Đức Kitô", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói cùng lúc với các vấn đề khác.
Đức Thánh Cha đã mời gọi đám đông hãy vỗ tay hoan hô 19 vị Tân Hồng Y được "lập" lên ngày hôm qua, 22/02/2014, tại Đền Thánh Phêrô : "Chúng ta chào mừng các Đức Tân Hồng Y bằng tràng pháo tay. Chúng ta chào mừng tất cả các vị !"
Sau đây là bản dịch toàn văn bài huấn đức của Đức Thánh Cha trước và sau Kinh Truyền Tin : ngài cũng chào mừng một nhóm sinh viên của thành phố Toulouse, Pháp.
A.B.
Lời Đức Thánh Cha Phanxicô trước Kinh Truyền Tin
Thân chào quý anh chị em !
Trong bài đọc hai ngày chúa nhật hôm nay, thánh Phaolô khẳng định : "Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, Apôllô, Khê-pha [tức là Phêrô], dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại và tương lai : tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa", (1 Cr 3, 21-23). Tại sao Thánh Phaolô tông đồ lại nói như thế ? Bởi vì vấn đề mà thánh tông đồ gặp phải là vấn đề chia rẽ trong cộng đoàn ở Côrintô, trong đó đã hình thành các phe nhóm tự nhận thuộc về những vị truyền giảng khác nhau mà họ coi như là những thủ lãnh của họ. Họ nói rằng : " "Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô", "Tôi, tôi thuộc về ông Apôllô", "Tôi, tôi thuộc về ông Phêrô" " (1 Cr 1, 12). Thánh Phaolô giải thích rằng cách suy nghĩ này là sai lầm bởi vì cộng đoàn không thuộc về các tông đồ, mà chính các tông đồ thuộc về các cộng đoàn; nhưng toàn thể cộng đoàn lại thuộc về Đức Kitô !
Từ sự thuộc về này phát sinh ra trong các cộng đoàn Kitô hữu - giáo phận, giáo xứ, hội đoàn, phong trào - những khác biệt không thể nào chối bỏ được sự kiện rằng tất cả chúng ta, nhờ phép Rửa, chúng ta đều có cùng một phẩm giá : tất cả, trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta là con cái Thiên Chúa.. Và đó chính là phẩm giá của chúng ta : nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta là con cái của Thiên Chúa ! Những ai đã nhận một sứ vụ dẫn dắt, giảng dạy, ban các bí tích, không được tự coi mình là sở hữu chủ của những quyền lực đặc bìệt, như các ông chủ, mà phải hạ mình phục vụ cộng đoàn, bằng cách giúp đỡ cộng đoàn vui vẻ tiến bước trên con đường nên thánh.
Ngày hôm nay Giáo Hội đã gửi gấm việc làm chứng lối sống mục tử này cho các Đức Tân Hồng Y, mà sáng nay tôi đã cùng các ngài đồng tế Thánh Lễ. Chúng ta có thể chào mừng các Đức Tân Hồng Y bằng những tràng pháo tay. Chúng ta chào mừng tất cả quý ngài ! Công Nghị ngày hôm qua và Thánh Lễ ngày hôm nay đã cho chúng tôi cơ hội quý giá để trải nghiệm tính Công Giáo và tính hoàn vũ của Giáo Hội, được thể hiện bởi nguồn gốc khác nhau của những thành viên Hồng Y Đoàn, được tập trung trong sự hiệp thông gần gũi nhất xung quanh người Kế Vị Thánh Phêrô. Và cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn được làm việc cho sự hiệp nhất Giáo Hội, được xây dựng sự hiệp nhất này, bởi vì hiệp nhất quan trọng hơn tranh chấp ! Sự hiệp nhất trong Giáo Hội là của Đức Kitô, tranh chấp là những vấn đề không bao giờ đến từ Đức Kitô…
Mong rằng những khoảnh khắc phụng vụ và lễ hội, mà chúng ta có dịp trải nghiệm trong hai ngày này, tăng cường trong tất cả chúng ta đức tin, tình yêu Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài ! Tôi cũng mời gọi anh chị em hãy ủng hộ các vị mục tử này và giúp đỡ các ngài bằng kinh nguyện của anh chị em để các ngài luôn hăng say dẫn dẵt chư dân đã được gửi gấm cho các ngài, để các ngài thể hiện với tất cả mọi người lòng nhân ái và tình yêu của Chúa. Anh chị em nên biết là một vị giám mục, một vị hồng y, một vị Giáo Hoàng cần đến những kinh nguyện của quý anh chị em đến như thế nào để có thể giúp cho Dân Thiên Chúa bước tới ! Tôi nói "giúp cho", nghĩa là phục vụ Dân Thiên Chúa, bởi vì ơn gọi của giám mục, của hồng y và của  Giáo Hoàng đúng ra là làm tôi tớ, là phục vụ nhân danh Đức Kitô. Anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để chúng tôi trở thành những tôi tớ tốt lành : đúng, tôi tớ tốt lành, chứ không phải những ông chủ tốt lành ! Tất cả các giám mục, linh mục, những người tận hiến và các tín hữu giáo dân, chúng ta phải cống hiến một sự làm chứng cho một Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô, được làm sống động bởi mong muốn phục vụ anh em mình và sẵn sàng đáp lại, với một lòng can đảm tiên tri, cho những chờ đợi và đòi hỏi thiêng liêng của con người nam nữ trong thời đại chúng ta. Cầu xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành với chúng ta và gìn giữ chúng ta trên con đường này.
Lời Đức Thánh Cha Phanxicô sau Kinh Truyền Tin
Tôi chào mừng tất cả các khách hành hương có mặt, đặc biệt những người đến đây trong dịp công nghị để đồng hành với các Đức Tân Hồng Y, và tôi cảm ơn nhiều quốc gia đã muốn hiện diện trong biến cố này bằng các phái đoàn chính thức.
Tôi chào mừng các sinh viên đến từ Toulouse và cộng đoàn người Venezuela sinh sống ở Ý
Tôi chào mừng các giáo hữu của Caltanissetta, Reggio Calabria, Sortino, Altamura, Ruvo và Lido dgli Estensi; các bạn trẻ từ Reggio Emilia và của giáo phận Lodi; Hội xe đạp Agrigente, và những thiện nguyện viên của tổ chức Bảo vệ dâ sự ở Bassa Padovana.
Với tất cả, tôi chúc một ngày chúa nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(23 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/servir-l-unite-de-l-eglise-vocation-des-cardinaux

 

Bài giao lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về bí tích hòa giải
Một bí tích chữa lành (toàn văn) 

Rôma – 19/02/2014 (Zenit.org)
Bí tích Hòa Giải là một bí tích chữa lành, Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích trong bài giáo lý về phép bí tích này, trước 20.000 khách hành hương trên quảng trường Thánh Phêrô.
Ngài mời gọi không nên e ngại cảm tưởng xấu hổ khi phải thú nhận tội lỗi của mình - ai không biết xấu hổ là người "vô sỉ" – và hãy gieo mình vào đôi vòng tay của Cha đầy lòng thương xót.
Rồi Đức Thánh Cha đã hỏi : anh chị em xưng tôi lần chót là khi nào vậy ? "Và nếu đã lâu rồi, thì bạn đừng mất thêm một ngày nào nữa, bạn hay đi đi, và vị linh mục sẽ rất khoan dung. Chính là Chúa Giêsu đang ở đó, và Chúa Giêsu là vị linh mục tốt lành nhất trong các linh mục, Chúa Giêsu sẽ đón tiếp bạn, đón tiếp bạn với rất nhiều tình thương. Bạn hãy can đảm lên và hãy đi xưng tội !"
Dưới đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha bằng tiếng Ý, ngày thứ tư 19/02/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô .
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về bí tích hòa giải
Thân chào quý anh chị em !
Qua các bí tích khai tâm Kitô giáo, bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức và bí tích Thánh Thể, con người lãnh nhận sự sống mới trong Đức Kitô. Bây giờ, tất cả chúng ta đều biết, chúng ta mang sự sống này "trong những cái bình bằng đất sét" (2 Cr 4, 7), chúng ta còn bị cám dỗ, còn bị đau khổ, còn bị chết, và bởi vì tội lỗi, chúng ta còn có thể mất đi cả sự sống mới này nữa. Vì thế Chúa Giêsu đã muốn rằng Giáo Hội tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi của Ngài đối với những thành viên của mình, đặc biệt nhờ vào bí tích Hòa Giải và bí tích Xức Dầu bệnh nhân, vốn có thể hợp lại dưới tên gọi "các bí tích chữa lành". Bí tích hòa giai là một bí tích chữa lành. Khi tôi đi xưng tội, chính là để được chữa lành, để chữa lành linh hồn tôi, chữa lành trái tim tôi và những gì tôi đã làm mà không tốt. Hình ảnh Thánh Kinh biểu lộ rõ ràng nhất những điều này, trong mối quan hệ sâu sắc, là đoạn nói về sự tha thứ và chữa lành người bị liệt, khi Chúa tỏ ra là thầy thuốc vừa cho phần hồn vừa cho phần xác (x. Mc 2, 1-12; Mt 9, 1-8; Lc 5, 17-26).
1. Bí tích xám hối và hòa giải trực tiếp tuôn ra từ mầu nhiệm vượt qua. Quả vậy, ngay buổi tối hôm lễ Vượt Qua, Chúa đã hiện ra với các môn đệ, đang nhốt mình trong phòng tiệc ly, và, sau khi ngỏ lời chào "Bình an cho anh em", Ngài đã thổi hơi trên họ và phán : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha" Ga 20, 21-23). Đoạn này mặc khải cho chúng ta động lực sâu xa chứa đựng trong bí tích này. Trước hết, sự kiện tha thứ tội lỗi chúng ta không phải chuyện gì chúng ta có thể cho nhau. Tôi không thể nói : tôi tự tha thứ tội lỗi của tôi. Sự tha thứ là điều phải cầu xin, phải cầu xin từ ai khác và trong khi Xưng Tội, chúng ta cầu xin Chúa Giêsu sự tha thứ của Ngài. Sự tha thứ không phải kết quả của những nỗ lực từ chúng ta, đó là một tặng phẩm, một ơn phúc của Chúa Thánh Thần, là Đấng làm tràn đầy chúng ta trong một cuộc tắm gội tái sinh của lòng thương xót và ân điển đang tuôn chảy không ngừng từ trái tim mở rộng của Đức Kitô bị đóng đinh và đã sống lại.
Thứ đến, Ngài nhắc nhở chúng ta rằng chỉ chính khi chúng ta tự để được hòa giải trong Chúa Giêsu với Cha và với anh em chúng ta, thì chúng ta mới có thể thật sự được bình an. Và điều đó, tất cả chúng ta đểu cảm nhận trong lòng khi chúng ta đi xưng tội, với một gánh nặng trong tâm hồn, một chút buồn rầu; và khi chúng ta nhận được sự tha thứ của Chúa Giêsu, chúng ta được bình an, với sự bình an trong tâm hồn đẹp đẽ biết bao này và chỉ có Chúa Giêsu có thể ban cho, chỉ một mình Ngài.
2. Với thời gian, việc cử hành bí tích này đã chuyển từ hình thức công khai - bởi vì lúc đầu, việc này tiến hành công khai – sang hình thức cá nhân và riêng tư, của việc xưng tội. Điều này không làm mất đi khuôn mẫu Giáo Hội, vốn là bối cảnh cốt yếu. Quả vậy, chính cộng đoàn Kitô giáo là nơi chốn mà Chúa Thánh Thần hiện diện, Ngài đổi mới lòng người trong tình yêu Thiên Chúa và làm cho tất cả anh em chúng ta trở thành một trong Đức Kitô Giêsu. Đó là lý do tại sao không thể cầu xin Chúa tha thứ trong lòng, trong trí mình được, mà cần phải khiêm nhường và tin tưởng xưng tội mình ra với một linh mục của Giáo Hội.
Trong việc cử hành bí tích này, linh mục không chỉ đại diện cho Thiên Chúa mà còn cho tất cả cộng đoàn, vốn nhận ra sự mỏng giòn của mỗi thành viên của mình, cảm động khi nghe sự thống hối của tội nhân, hòa giải với tội nhân, ban lại cho tôi nhân lòng can đảm và đồng hành với tội nhân trên con đường trở lại cũng như trưởng thành về con người và về Kitô giáo. Nguời ta có thể nói : tôi chỉ xưng tội với Thiên Chúa. Đúng, bạn có thể thưa với Thiên Chúa "lạy Chúa, xin tha tội cho con" và kể cho Ngài tội lỗi của bạn, nhưng tội lỗi của chúng ta cũng là những tội đối với anh em chúng ta, đối với Giáo Hội nữa. Chính vì thế mà cần phải xin sự tha thứ từ nơi Giáo Hội, từ nơi anh em chúng ta, trong thân xác của vị linh mục. "Nhưng, 'tâu Đức Thánh Cha, con xấu hổ…". Sự xấu hổ là tốt, có lành mạnh mới cảm thấy xấu hổ, bởi vì biết xấu hổ là bổ ích. Trong xứ của tôi, khi ai đó không biết xấu hổ, người ta nói hắn là "vô xỉ". Nhưng sự xấu hổ cũng làm ích lợi cho chúng ta, bởi vì nó khiến chúng ta trở nên khiêm nhường hơn và vị linh mục nhận lời thú tội này với tình yêu thương và nhân lành và ngài tha tội nhân danh Thiên Chúa.
Cũng từ một quan điểm con người, để làm cho mình nhẹ nhõm, thật là có ích khi kể được với người anh em của mình, với vị linh mục những điều đang đè nặng chĩu trong lòng mình. Và người ta cảm thấy thố lộ cùng Thiên Chúa, trong lòng Giáo Hội, bên cạnh anh em chúng ta. Anh chị em đừng sợ đi xưng tội !  Khi xếp hàng để xưng tội, người ta cảm thấy tất cả điều này, kể cả sự xấu hổ, nhưng sau đó, khi xưng tội xong, người ta ra về thơ thới tự do, lớn hơn, đẹp hơn, được thứ tha, trong trắng hơn và hạnh phúc hơn. Chính đó là cái đẹp trong xưng tội ! Tôi muốn hỏi anh chị em – nhưng đừng trả lời lớn tiếng, mỗi người trả lời trong lòng mình thôi - bạn đi xưng tội lúc nào vậy ? bạn xưng tội lần chót là khi nào vậy ? Xin mỗi người suy nghĩ… Cách đây 2 ngày, hai tuần, hai năm, hai mươi năm, bốn mươi năm ? Xin mỗi người tính sổ, nhưng mong mỗi người hãy tự nhủ : mình xưng tội lần chót là bao giờ kìa ? Và nếu là lâu rồi, bạn đừng mất thêm một ngày nữa, bạn hãy đi đi, vị linh mục sẽ nhân lành. Chính Chúa Giêsu đang ở đó, và Chúa Giêsu là vị linh mục tuyệt vời nhất, Chúa Giêsu tiếp đón bạn, đón bạn với rất nhiều yêu thương. Bạn hãy can đảm và hãy đi xưng tội !
Các bạn thân mến, cử hành bí tích hòa giải có nghĩa là được bao bọc trong một vòng tay ấm áp : đó là vòng tay của lòng thương xót vô biên của Cha. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn rất đẹp của đứa con bỏ nhà ra đi với tiền của gia tài; anh ta đã tiêu phí tất cả tiền bạc, và khi anh ta chẳng còn gi, anh ta đã quyết định trở về nhà, không phải như một người con nhưng như một kẻ tôi tớ. Anh ta đã mang nặng một tội lớn trong lòng và anh ta đã xấu hổ biết chừng nào. Sự bất ngờ là khi anh ta mới mở miệng để xin lỗi, thì cha anh đã không để anh nói, ông đã ôm lấy anh ta trong vòng tay mình, đã hôn anh ta và tổ chức tiệc ăn mừng. Nhưng tôi, tôi nói với các anh chị em : mỗi lần chúng ta đi xưng tội, Thiên Chúa ôm chúng ta trong vòng tay Ngài, Thiên Chúa mở tiệc ăn mừng ! Chúng ta hãy tiến bước trên con đường này ! Xin Chúa ban phép lành cho anh chị em !
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(19 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/catechese-du-pape-francois-sur-le-sacrement-de-la-reconciliation

 

Ai quyết tâm tránh nói xấu sẽ trở nên Thánh
Kinh Truyền Tin ngày 16 thàng 02 năm 2014, toàn văn.  

Rôma – 16/02/2014 (Zenit.org)
Tôi xác tín rằng nếu mỗi người trong chúng ta lấy quyết định tránh nói xấu, cuối cùng người đó sẽ trở nên Thánh", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố trong giờ Kinh Truyền Tin ngày 16/02/2014 vừa rồi, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Để bắt đầu kinh Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng đã cảnh giác chống lại những lời ba hoa, đồn thổi, nói xấu : "những lời nói đó cũng có thể giết người !".
Như vậy, cấm giết người, không phải là chỉ "không được xâm hại mạng sống người khác", mà còn là "không được đổ lên đầu họ thuốc độc của sự giận dữ" hay là "đánh phá họ bằng sự vu khống hay "nói xấu về họ", ngài nhấn mạnh.  
Quả vậy, "những lời nói xấu, cũng có thể giết người, bởi vì nó giết tiếng thơm của người ta ! Thật là quá xấu xa khi nói xấu (người khác)… Điều đó khiến trong lòng chúng ta tràn đầy cay đắng, và cũng đầu độc chính chúng ta nữa".
Lời Đức Thánh Cha Phanxicô trước Kinh Truyền Tin.
Thân chào quý anh chị em,
Bài Tin Mừng ngày chúa nhật này cũng còn là một phần của bài được gọi là "bài giảng trên núi", bài giảng quan trọng đầu tiên của Chúa Giêsu. Hôm nay đề tài là thái độ của Chúa Giêsu đối với lề luật Do Thái. Ngài khẳng định rằng : "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn" (Mt 5, 17). Như thế, Chúa Giêsu không muốn bãi bỏ những giới luật mà Chúa đã ban cho ông Mô-sê, nhưng Ngài muốn đưa lề luật lên đến chỗ vẹn toàn. Và Ngài nói thêm ngay sau đó rằng "sự kiện toàn" Lề Luật đòi hỏi một nền công lý cao hơn, một sự tuân thủ chính đáng hơn. Ngài đã nói rõ ràng với các môn đệ của Ngài rằng : "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 5, 20). 
Nhưng "kiện toàn đầy đủ" Lề Luật có nghĩa là gì ? Và cái nền công lý cao hơn, nghĩa là thế nào ? Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta bằng vài thí dụ - Chúa Giêsu rất thực tế, Ngài luôn phán dạy với thí dụ để làm cho chúng ta hiểu Ngài. Ngài bắt đầu bằng điều răn thứ Năm trong 10 điều rằng : "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : 'Chớ giết người'… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa" (Mt 5, 21-22). Qua đó, Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta rằng lời nói cũng có thể giết người ! Khi nói về một người nào đó là có miệng lưỡi độc địa thì có nghĩa là gì ? Có nghĩa là lời nói của hắn giết người ! Bởi vậy, không phải chỉ không được mưu hại mạng sống người khác, mà cũng không được đổ lên đầu người khác nọc độc của sự giận dữ cũng như đánh phá người khác bằng lời vu khống. Cũng không được nói xấu người khác. Chúng ta đề cập đến sự vu khống : những lời cáo gian cũng có thể giết người, bởi vì chúng giết chết tiếng thơm của người khác ! Thật là xấu xa khi nói xấu người khác ! Lúc đầu, có vẻ như là chuyện vui đùa, như ngậm viên kẹo. Nhưng rốt cuộc, nó làm cho lòng minh đầy cay đắng, và làm chính chúng ta bị ngộ độc. Tôi bảo thật anh chị em, tôi xác tín rằng nếu mỗi người trong chúng ta hạ quyết tâm tránh việc nói xấu, cuối cùng rồi sẽ nên thánh ! Đó là con đường tươi đẹp ! Chúng ta có muốn nên thánh không ? Có hay không ? [Đám đông : Có !] Chúng ta có muốn sống gắn liền với nói xấu như một cái tật không ? Có hay không ? [Đám đồng : Không !]. Như thế là chúng ta đồng ý với nhau : không nói xấu ! Chúa Giêsu đề nghị với kẻ đi theo Ngài tình yêu toàn thiện : một tình yêu mà thước đo duy nhất là không có thước đo, phải vượt xa hơn mọi tính toán. Tình yêu tha nhân là một thái độ nền tảng đến đỗi Chúa Giêsu phải khẳng định rằng quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không thể thành thật nếu chúng ta không làm hòa với tha nhân : "Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã" (Mt 5, 23-24) Vì vậy, chúng ta đều được kêu gọi phải làm hòa với anh em chúng ta trước khi biểu lộ lòng sùng kính với Chúa trong kinh nguyện.
Từ những điều trên, có thể hiểu rằng Chúa Giêsu không chỉ quan tâm đến việc tuân giữ Lề Luật và đến hạnh kiểm bề ngoài. Ngài đi đến nguồn gốc của Lề Luật, nhắm trước hết vào chủ ý, nghĩa là lòng người, từ đó xuất phát những công việc tốt hay xấu. Để có được những thái độ tốt lành và lương thiện, những tiêu chuẩn pháp lý không đủ, mà cần phải có những động cơ sâu xa, thể hiện một sự khôn ngoan ẩn dấu, Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, có để lãnh nhận được nhờ Chúa Thánh Thần. Và chúng ta, nhờ đức tin vào Chúa Giêsu, chúng ta có thể mở lòng chúng ta cho tác động của Chúa Thánh Thần, là Đấng khiến chúng ta có khả năng sống tình yêu Thiên Chúa.
Dưới ánh sáng của giáo huấn này, mỗi giới luật tỏ ra ý nghĩa đầy đủ của mình như sự đòi hỏi tình yêu, và tất cả tụ hội trong giới răn quan trọng nhất : yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình vậy.
Lời Đức Giáo Hoàng sau Kinh Truyền Tin
Tôi thân ái chào mừng tất cả những cư dân Rôma và các khách hành hương có mặt, các gia đình, các giáo xứ, những người trẻ téư bao quốc gia trên thé giới. Tôi đặc biệt chào mừng nhiều giáo hữu của nước Cộng Hòa Séc đã tháp tùng các vị giám mục của họ trong chuyến viếng thăm ad limina, và các giáo hữu Tây Ban Nha của các giáo phận Orihuela-Alicante, Jerez de la Frontera, Cadix và Ceuta.
Tôi chào mừng các nhóm giáo xứ và các phong trào thanh niên của Ý.
Tôi cũng chào mừng các nhóm quân nhân Ý. Và tôi chúc toàn thể anh chị em một ngày chúa nhật tốt đẹp.
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(16 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/qui-prend-la-resolution-d-eviter-les-medisances-devient-saint

 

Thánh Thể thôi thúc mở lòng ra với tha nhân
Bài giáo lý ngày 12 tháng 02 năm 2014, toàn văn 

Rôma – 12/02/2014 (Zenit.org)
Thánh Thể phải thôi thúc người Công Giáo coi tha nhân "như anh chị em mình", phải làm lớn lên nơi người Công Giáo "khả năng vui với người đang vui và khóc với người đang khóc", và khả năng "đi tới những người nghèo khổ, những người bệnh tật, những người ngoài lề xã hội", Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố.
Ngài đánh giá rằng "cách chúng ta nhin và đối xử với tha nhân" quả là "một dấu chỉ cho chúng ta thấy, chúng ta có sống bí tích Thánh Thể cách đúng đắn, hay là không".
Trong buổi triều kiến chunt ngày thứ tư 12/02/2014, Đức Giáo Hoàng đã tiếp nối loạt bài giáo lý mà ngài đã khởi sự hồi đầu năm về các hép bí tích. Sau bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, Đức Giáo Hoàng đã dành buổi sáng nay cho bài giáo lý thứ hai của ngài về bí tích Thánh Thể.
Ngài đã mời gọi hàng ngàn khách hành hương tụ tập trên quảng trường Thánh Phêrô hãy xét mình : "tôi đi dự Thánh Lễ, nhưng tôi có lo giúp đỡ những người đang bị vấn đề, có lo đến với họ, có lo cầu nguyện cho họ không ? Hay là tôi có chút vô cảm ?".
Đức Thánh Cha cũng đưa ra hai chỉ dấu khác để biết nếu người Công Giáo sống bí tích Thánh Thể cách đích thực : "ơn phúc cảm thấy mình được tha thứ và sẵn sàng tha thứ" và "sự xuyên suốt giữa phụng vụ và đời sống".
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Trong bài giáo lý lần trước, tôi đã chứng minh sự kiện là bí tích Thánh Thể dẫn dắt chúng ta vào trong sự hiệp thông thật sự với Chúa Giêsu và mầu nhiệm của Ngài. Bây giờ, chúng ta có thể tự đặt cho mình vài câu hỏi về mối quan hệ giữa Thánh Lễ mà chúng ta cử hành và cuộc đời chúng ta, với tư cách Hội Thánh và cá nhân, với tư cách người Kitô hữu. Chúng ta hãy tự hỏi : Chúng ta sống Thánh Thể như thế nào ? Khi chúng ta đi lễ ngày chúa nhật, chúng ta trải nghiệm thánh lễ như thế nào ? Có phải đó chỉ là một khoảnh khắc lễ hội, có phải là tập tục đã có từ trước, có phải đó là một cơ hội để chúng ta gặp nhau hay để chúng ta an tâm làm đúng lề luật, hay còn cái gì hơn thế nữa ?
Có những dấu chỉ rất cụ thể cho ta hiểu được chúng ta trải nghiệm điều đó như thế nào, trải nghiệm Thánh Thể như thế nào; những dấu chỉ cho chúng ta biết chúng ta có trải nghiệm Thánh Thể cách đúng đắn không, hay chúng ta trải nghiệm chưa được đúng đắn lắm.
Dấu chỉ thứ nhất là cách chúng ta nhìn và coi tha nhân. Trong bí tích Thánh Thể, Đức Kitô thực hiện, một cách luôn luôn mới mẻ, sự hiến tặng chính mình trên cây Thánh Giá. Suốt cả cuộc đời Ngài là một hành động chia sẻ ban hết thân Ngài vì tình yêu; chính vì thế mà Ngài ưa ở với các môn đệ của Ngài và với những người mà Ngài tiếp xúc. Điều này có nghĩa để họ chia sẻ với Ngài những ước muốn, những vấn đề, những gi đang giao động trong tâm hồn và cuộc sống của họ. Và chúng ta, khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng ở chung với những người nam nữ đủ mọi thành phần : người trẻ, người già, trẻ em, người nghèo và người khá giả, người cùng xóm hay người xa lạ, cả gia đình hay chỉ một mình… Nhưng Thánh Lễ mà tôi tham dự có khiến cho tôi coi tất cả những người đó thực sự như những người anh chị em của tôi không ? Thánh Lễ có làm lớn lên trong tôi khả năng vui được với người đang vui và khóc được với người đang khóc không ? Thánh Lễ có thôi thúc tôi đến với những người nhèo khổ, những người bệnh tật, những người bên lề xã hội không ? Thánh Lễ có giúp tôi nhận ra nơi họ dung nhan của Chúa Giêsu không ?
Tất cả chúng ta đều đi Lễ bởi vì chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và vì chúng ta muốn chia sẻ, trong Thánh Lễ, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài. Nhưng liệu chúng ta có, như thánh ý Chúa Giêsu muốn, yêu mến những người anh chị em nghèo khổ nhất này không? Thí dụ, tại Rôma, trong những ngày gần đây, chúng ta đã thấy nhiều thảm cảnh xã hội, vì thời tiết mưa bão, đã làm thiệt hại nhiều khu dân cư, hay vì thiếu công ăn việc làm, vốn là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới. Tôi tự đặt cho tôi câu hỏi, và mỗi người trong chúng ta cũng có thể tự hỏi : tôi là người Lễ, tôi trải nghiệm tất cả chuyện này như thế nào ? Tôi có lo giúp đỡ những người đang gặp những vấn đề này không, có đến với họ không ? có cầu nguyện cho họ không ? Hay là, tôi có đôi chút dửng dưng ? Hay, tệ hơn nữa, tôi ưa những chuyện đàm tiếu : anh có thấy cái bà kia ăn mặc như thế không ? em thấy cái ông kia ăn mặc kiểu gì vậy ? Đôi khi, đó là những gì xẩy ra sau Thánh Lễ và đáng lẽ ra không nên như thế ! Chúng ta phải bận tâm cho những người anh chị em chúng ta đang cần sự giúp đỡ vì bệnh hoạn hay vì một vấn đề nào đó. Điều này, hôm nay sẽ làm cho chúng ta cảm thấy thoải mái khi nghĩ đến những người anh chị em chúng ta đang có vấn đề, ở ngay đây, tại Rôma này : vì thảm họa do trời mưa lũ, hay những vấn đề xã hội và việc làm. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu, trong phép Thánh Thể chúng ta lãnh nhận, giúp cho chúng ta giúp đỡ họ.
Một dấu chỉ thứ nhì, rất quan trọng, là ơn cảm thấy mình được tha thứ và thấy mình sẵn sàng tha thứ. Đôi khi, có câu hỏi này : "Tại sao phải đi nhà thờ, vì những người thường dự Thánh Lễ cũng phạm tôi như bao người khác ?" Có biết bao lần chúng ta đã nghe câu hỏi này ! Thực ra, người dâng Thánh Lễ không phải vì tự coi mình hay muốn làm ra vẻ mình tốt lành hơn người khác, mà chính là bởi vì người đó công nhận rằng mình luôn cần được đón nhận và tái sinh bởi lòng thương xót của Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô. Nếu có người nào trong chúng ta không cảm thấy cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, không cảm thấy rằng mình là tội nhân, tốt hơn hết, người đó đừng đi Lễ ! Chúng ta đi Lễ bởi vì chúng ta là những kẻ tội lỗi và vì chúng ta muốn nhận được sự tha thứ từ Thiên Chúa, muốn được can dự vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu, và sự tha thứ của Ngài.
Kinh "Cáo Mình" mà chúng ta đọc lúc đầu Lễ không phải chỉ là "hình thức", đó chính là một hành động xám hối ! Tôi là kẻ có t(ôi và tôi thú nhận tội lỗi mình, Thánh Lễ đã bắt đầu như thế ! Chúng ta không bao giờ được quên rằng bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu đã diễn ra "đêm Ngài bị giao nộp" (1 Cr 11, 23). Trong tấm bánh và chén rượu mà chúng ta tụ tập xung quanh để dâng tiến, mỗi lần đều lập lại sự hiến tặng Mình và Máu của Đức Kitô để đền tội cho chúng ta. Chúng ta phải đi Lễ với lòng khiêm nhường, như những kẻ tội lỗi, và Chúa hòa giải chúng ta. Điều này nhắc lại rõ ràng nhất ý nghĩa thâm sâu của sự hiến tế của Chúa Giêsu, và mở lòng chúng ta ra để đến lượt chúng ta cũng tha thứ cho các anh em và để hòa giải.
Một dấu chỉ cuối cùng và quý giá đã được ban cho chúng ta bởi mối quan hệ giữa việc cử hành Thánh Lễ và đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Phải luôn ghi nhớ trong lòng rằng bí tích Thánh Thể không phải là cái gì do chính chúng ta làm ra; chúng ta cũng không làm một cuộc tưởng niệm điều mà Chúa Giêsu đã nói và làm. Đây đích thực là một hành động của Đức Kitô ! Chính Đức Kitô đã hành động ở đây, trên bàn thờ. Đây là một tặng phẩm của Đức Kitô, là Đấng đang hiện diện và tụ tập chúng ta xung quanh Ngài, để nuôi sống chúng ta bằng Lời của Ngài và bằng mạng sống của Ngài. Điều này có nghĩa là sứ vụ và chính căn cước của Giáo Hội toát ra và hình thành từ đó, từ bí tích Thánh Thể. Một nghi thức bề ngoài có thể được cửa hành rất hoành tráng, rất đẹp, nhưng nếu nó không dẫn đưa chúng ta đến gặp gỡ với Chúa Giêsu, nó có thể chẳng mang đến cho tấm lòng và đời sống chúng ta một chút lương thực nào. Trái lại, thông qua bí tích Thánh Thể, Đức Kitô muốn đi vào trong cuộc sống chúng ta và thẩm thấu đời sống chúng ta bằng ân sủng của Ngài hầu cho, trong mọi cộng đoàn Kitô hữu, luôn có một sự kết cố giữa phụng vụ và đời sống.
Lòng chúng ta tràn đầy tin tưởng và hy vọng khi nghĩ tới những lời phán dạy của Chúa Giêsu đã được các Phúc Âm ghi lại cho chúng ta : "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho sống lại trong ngày sau hết" (6, 54). Chúng ta hãy sống Phép Thánh Thể trong tinh thần đức tin và cầu nguyện, tinh thần tha thứ, thống hối, tinh thần vui tươi cộng đồng, tinh thần bận tâm đến những người cùng khổ đến những nhu cầu của tất cả anh chị em chúng ta, với lòng xác tín rằng Chúa sẽ thực hiện điều Ngài đã hứa với chúng ta : sự sống đời đời. Amen !
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(12 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/l-eucharistie-fait-grandir-l-ouverture-aux-autres

 

Đi lễ ngày Chúa nhật bởi vì:
"Trải nghiệm điều này thật là đẹp !"

Bài giáo lý ngày 05-02-2014 về bí tích Thánh Thể  

Rôma – 05/02/2014 (Zenit.org)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích giáo dân đi lễ ngày chúa nhật : "trải nghiệm điều này, thật là đẹp"
Đức Thánh Cha đã tiếp tục chuỗi bài giáo lý của ngài về các bí tích và đã dành buổi triều kiến ngày thứ tư 05/02/2014 này, trên quảng trường Thánh Phêrô, cho bài về bí tích Thánh Thể.
"Các bạn thân mến, ngày nói, chúng ta không bao giờ cảm ơn Chúa cho đủ vì hồng ân của Ngài đã ban cho chúng ta qua phép Thánh Thể ! Đây là một hồng ân quá to lớn, và vì lẽ đó, thật quá là quan trọng phải đi lễ này chúa nhật. Đi lễ không phải chỉ là để cầu nguyện, mà còn là để Rước Lễ, rưóc tấm bánh vốn chính là thánh thể của Chúa Giêsu Kitô, đấng đã cứu chuộc chúng ta, đã tha thứ cho chúng ta, đã kết hợp chúng ta với Đức Chúa Cha, Trải nghiệm điệu này thật là đẹp !"
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô được ngài đọcan bằng tiếng Ý, kể cả những đoạn ngài ứng khẩu.
A.B.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Hôm nay, tôi sẽ trinh bầy với anh chị em về Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là trung tâm của công cuộc "khai tâm Kitô giáo", cùng với bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, và là chính nguồn mạch sự sống của Giáo Hội. Quả vậy, từ bí tích tình yêu này, đã tuôn ra mọi con đường đức tin đích thực, con đường hiệp thông và chứng tá.
Điều chúng ta nhìn thấy khi chúng ta tề tựu để cử hành bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ, đã khiến chúng ta cảm nhận được ngay là chúng ta sẽ được sống. Ở giữa không gian dành cho việc cử hành, là bàn thờ, vốn là một cái bàn được trải bằng khăn bàn làm cho chúng ta liên tưởng đến một bàn tiệc. Trên bàn, có cây Thánh Giá để chỉ rõ là trên bàn thờ, chúng ta dâng Đức Kitô lên như của hy tế : chính Ngài là của ăn thiêng liêng mà chúng ta lãnh nhận, dưới hình thể của bánh và rượu. Bên cạnh bàn thờ, có bục giảng, nghĩa là nơi chúng ta tuyên đọc Lời Chúa : điều này cho thấy rằng chúng ta tập họp lại để nghe Chúa phán với chúng ta qua các Thánh Kinh, và như thế, lương thực mà chúng ta nhận được cũng là Lời của Ngài.
Lời Chúa và tấm bánh trong Thánh Lễ trở thành một điều duy nhất, cũng như trong bữa "tiệc ly", khi mọi lời phán dạy của Chúa Giêsu, khi tất cả những dấu chỉ mà Ngài đã làm, đã cô đọng trong cử chỉ bẻ bánh và ban chén của Ngài, để tiên báo cho hy tế trên Thánh Giá, và trong những lời này : "Các con hãy nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy nhận mà uống, này là Máu Ta".
Cử chỉ mà Chúa Giêsu làm trong bữa "tiệc ly" là một sự cảm tạ tối hậu dâng lên Đức Chúa Cha vì tinh yêu thương của Ngài, vì lòng thương xót của Ngài. "Cảm tạ", tiếng Hy Lạp, đọc là "eucaristia" (nd : nguồn gốc của từ Thánh Lễ). Và vì thế bí tích được gọi là bí tích Thánh Thể : có nghĩa là lời cảm tạ tối thượng dâng lên Chúa Cha, là Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ, vì tình yêu đó, ban cho chúng ta Con của Ngài. Đó là lý do từ ngữ "Eucharistie" (Thánh Lễ) nhắc lại toàn bộ cử chỉ đó, vốn là cử chỉ của Thiên Chúa và của con người, cử chỉ của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và con người thật.
Cử hành bí tích Thánh Thể, như thế, không chỉ là một bữa tiệc : chính là cử hành tưởng niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mầu nhiệm trung tâm của sự cứu độ. "Tưởng niệm" không chỉ có nghĩa là "kỷ niệm", một kỷ niệm đơn giản, mà điều này có ý nghĩa là mỗi lần chúng ta cử hành bí tích này, chúng ta tham gia vào mầu nhiệm khổ nạn, vào cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Thánh Thể là tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa : quả vậy, khi biến mình thành tấm bánh bị bẻ ra vì chúng ta, Chúa Giêsu đổ lại xuống cho chúng ta tất cả lòng thương xót và lòng nhân ái của Ngài, canh tân trái tim, cuộc sống và cách sống của chúng ta trong quan hệ với Ngài và với các anh em chúng ta. Chính vì thế mà người ta thường nói, khi tiếp cận với bí tích này, là "Chịu Lễ", là "Rước Lễ" : điều này có nghĩa, trong quyền phép của Chúa Thánh Thần, là sự tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể làm cho chúng ta phù hợp với Đức Kitô cách đặc biệt và sâu đậm; chịu lễ cho chúng ta nếm trước sự hiệp thông đầy đủ với Chúa Cha, dự vào bữa tiệc trên trời, nơi cùng với tất cả các thánh, chúng ta sẽ có niềm vui không thể tưởng tượng nổi khi được trực tiếp chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa.
Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cảm tạ Chúa cho đủ vì ơn phúc Ngài đã ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể ! Đó là một ân điển to lớn đến độ, và chính vì lý do này mà đi lễ ngày chúa nhật là hết sức quan trọng. Đi lễ, không chỉ để cầu nguyện, mà để được Rước Lễ, miếng bánh là chính Mình Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã cứu độ, đã tha thứ và đã kết hợp chúng ta với Đức Chúa Cha. Thật là đẹp khi trải nghiệm điều này !
Và mỗi chúa nhật, chúng ta đi lễ bởi vì đó chính là ngày Chúa phục sinh. Chính vì thế mà ngày chúa nhật là ngày quan trọng đối với chúng ta. Và với Thánh Thể, chúng ta thực sự cảm nhận được sự thống thuộc của chúng ta đối với Giáo Hội, đối với Dân Chúa, đối với Nhiệm Thể Thiên Chúa, đối với Đức Giêsu Kitô. Và chúng ta không thể nào hiểu được hết giá trị và sự phong phú của phép Thánh Thể.
Chúng ta hãy cầu xin cho bí tích này có thể tiếp tục duy trì sự hiện dìện sống động của mình trong Giáo Hội và đào luyện các cộng đoàn chúng ta trong tình bác ái và hiệp thông, theo tấm lòng của Chúa Cha. Và điều này, phải làm trong suốt cuộc đời chúng ta, nhưng thực ra chúng ta chỉ khởi sự vào ngày Rước Lễ Lần Đầu của chúng ta. Thật là quan trọng phải chuẩn bị tốt để các em nhỏ Rước Lễ Lần Đầu và tất cả các em đều được Rước Lễ, bởi vì đó là bước đầu của sự thống thuộc mạnh mẽ của các em đối với Đức Giêsu Kitô, sau phép Rửa Tội và phép Thêm Sức.
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(5 février 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/aller-a-la-messe-le-dimanche-car-c-est-beau-de-vivre-cela

 

"Hãy làm tất cả để trẻ em được nhận phép Thêm Sức"
Bài giáo lý ngày 29 tháng 01 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 29/01/2014 (Zenit.org)
Bí tích Thêm Sức "vào lúc hoàn tất, cưu mang sợi dây nối kết người đã chịu Phép Rửa với Giáo Hội" :  "Bí tích này trao ban sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng Thánh Danh Đức Kitô và để không bao giờ xấu hổ vì Thánh Giá" Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Vì vậy, Đức Thánh Cha đưa ra lời hiệu triệu : "Nếu ở nhà, anh chị em có các trẻ nhỏ, các thiếu niên, chưa chịu Phép Thêm Sức và đã đến tuổi nhận lãnh bí tích này, anh chị em hãy làm tất cả để các em hoàn tất công cuộc khai tâm Kitô giáo của các em, và được nhận lãnh sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Đây là điều quan trọng !"
Đức Thánh Cha tiếp tục chuỗi bài giáo lý của ngài về các Phép Bí Tích : sau khi chiêm niệm về Phép Rửa Tội (ngày 8 và 15/01/2014), ngài đã nói đến Bí Tích Thêm Sức, trong bài giáo lý sáng ngày 29/01/2014 này, trên quảng trường Thánh Phêrô.
Ngài giải thích, Phép Thêm sức "cùng với Phép Mình Thánh Chúa và Phép Rửa Tội, hợp thành 'sự khai tâm Kitô giáo', trong đó chúng ta được hội nhập vào Đức Giêsu Kitô, chịu chết và sống lại, và chúng ta trở nên những tạo vật mới và chi thể của Hội Thánh".
"Khi chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong lòng và chúng ta để cho Ngài tác động, thì đó là lúc chính Đức Kitô trở nên hiện diện trong chúng ta và hiện hình trong cuộc đời chúng ta; chính Ngài, chính đích thân Chúa Giêsu Kitô, sẽ cầu nguyện, tha thứ, trao ban hy vọng và niềm an ủi, phục vụ những người anh em của chúng ta, trở nên gần gũi với những người nghèo khó hay những người cùng khốn, tạo ra sự hiêp thông, gieo rắc bình an", ngài nói thêm.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Trong bài giáo lý thứ ba này về các Phép Bí Tích, chúng ta dừng lại trên Phép Thêm Sức, vốn được hiểu như bí tích trong dòng liên tục của Phép Rửa, vốn được gắn liền với nhau không thể phan tách ra được. Hai bí tích này, với bí tích Thánh Thể,  hợp thành một biến cố cứu đô duy nhất, "khai tâm Kitô giáo", trong đó chúng ta được hội nhập nơi Chúa Giêsu Kitô, chịu chết và sống lại, và chúng ta trở nên những tạo vật mới và thành viên của Giáo Hội. Đó là tại sao, từ nguồn gốc, ba bí tích này được cử hành vào một thời điểm duy nhất, ở cuối con đường học đạo, bình thường thì trong ngày Vọng lễ Phục Sinh. Như thế sẽ kết thúc hành trình huấn luyện và tuần tự hội nhập cộng đoàn Kitô hữu, đôi khi có thể kéo dài nhiều năm. Người ta từng bước đi tới Phép Rửa, và rồi đi tới Thêm Sức và tới Thánh Thể.
Người Ý thường hay nói về bí tích "Crêma", thành ngữ này có ý nghĩa "xức dầu". Và, quả vậy, qua loại dầu mang tên "Dầu Thánh Crêma", chúng ta được công nhận, trong quyền phép của Chúa Thánh Thần, và Chúa Giêsu Kitô vốn chính là "Dầu Thánh" đích thực, Đấng "Mêsia", Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Từ ngữ "Thêm Sức", cũng nhắc cho chúng ta rằng bí tích này làm tăng trưởng ơn phúc Rửa Tội : bí tích này gắn liền chúng ta chặt chẽ hơn với Đức Kitô; và vào lúc hoàn tất, (bí tích này) cưu mang sợi dây nối kết người đã chịu Phép Rửa với Giáo Hội; bí tích này trao ban sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng Thánh Danh Đức Kitô và để không bao giờ xấu hổ vì Thánh Giá (x. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 1303).
Chính vì thế mà cần phải quan tâm để các con em chúng ta, các thiếu niên của chúng ta, lãnh nhận bí tích này. Chúng ta đều lo lắng để các em được chịu Phép Rửa, và đó là điều tốt, nhưng có lẽ rằng chúng ta không lo âu đủ để chuẩn bị chúng cho Phép Thêm Sức. Vì thế, chúng sẽ bị bỏ ở giữa đường và chúng sẽ không được nhận lãnh Chúa Thánh Thần quá là quan trọng trong đời sống Kitô hữu, bởi vì Ngài trao ban cho chúng ta sức mạnh để tiến lên. Mong rằng mỗi người trong chúng ta  hãy suy nghĩ một chút : chúng ta có thật sự ưu tư để cho con em, cho các thiếu niên của chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm Sức không ? Đây là điều quan trọng, điều rất quan trọng ! Và nếu, ở nhà anh chị em, có những con trẻ hay thanh thiếu niên chưa được chịu Phép Thêm Sức và đang ở độ tuổi được nhận lãnh, anh chị em hãy làm bất cứ điều gì có thể để chúng hoàn tất công cuộc khai tâm Kitô giáo của chúng để chúng nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Đây là điều quan trọng.
Đương nhiên là quan trọng phải cống hiến cho những người chịu Phép Thêm Sức một sự chuẩn bị chu đáo mà mục đích là dẫn đưa họ đến sự gia nhập cá nhân vào đức tin nơi Đức Kitô và khơi lên trong họ ý thức họ thuộc về Giáo Hội.
Thêm Sức, cũng như tất cả các bí tích, không phải là công trình của con người, mà của Thiên Chúa là Đấng chăm lo đời sống chúng ta bằng cách rập khuôn chúng ta theo hình ảnh Con của Ngài, để khiến cho chúng ta có khả năng yêu thương như Ngài. Thiên Chúa làm điều này bằng cách đổ xuống trong chúng ta Thần Khí của Ngài. Tác động của Chúa Thánh Thần tràn đầy con người và cuộc sống chúng ta và thể hiện qua bảy ơn mà Truyền Thống và, dưới ánh sáng Thánh Kinh, đã luôn được đề cao. Bẩy ơn đó : tôi sẽ hỏi anh chị em xem anh chị em có còn nhớ không ? Có lẽ tất cả anh chị em đều biết hết… Nhưng tôi sẽ thay anh chị em để kể ra. Bẩy ơn đó là những ơn gì ? Ơn không ngoan, ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Thiên Chúa. Và các ơn này đều do chính Chúa Thánh Thần trao ban cho chúng ta trong bí tích Thêm Sức. Tôi có ý định sẽ dành các bài giáo lý tiếp theo loạt bài về các Bí Tích cho các ơn này. 
Khi chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần trong lòng chúng ta và để cho Ngài tác động, đích thân Đức Kitô sẽ hiện diện trong chúng ta và hiện hình trong đời sống chúng ta; qua chúng ta, chính Ngài, chính đích thân Chúa Kitô, sẽ cầu nguyện, tha thứ, trao ban hy vọng và an ủi, phục vụ những người anh em của chúng ta, trở nên gần gũi với những người nghèo khó hay những người cùng khốn, tạo sự hiệp thông, gieo rắc bình an. Anh chị em cũng thấy tầm quan trọng đến độ nào : nhờ Chúa Thánh Thần, đích thân Đức Kitô tới thực hiện điều này giữa chúng ta, cho chúng ta. Chính vì thế mà thật là quan trọng, các em nhỏ và những thanh thiếu niên phải nhận lãnh bí tích Thêm Sức.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nhớ là chúng ta đã nhận được Phép Thêm Sức ! Tất cả ! Chúng ta hãy nhớ điều đó, trước hết để tạ ơn Chúa về quà tặng này, và sau đó để cầu xin Ngài phù giúp chúng ta sống như những người Kitô hữu đích thực, luôn bước đi trong niềm vui vì Thiên Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
Bản dịch tiếng Pháp : Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(29 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/faites-tout-pour-que-les-jeunes-recoivent-la-confirmation

 

Đang lúc này, Chúa đi qua quảng trường :
Ngài gọi chúng ta

Bài huấn đức Chúa Nhật 26 tháng 01 năm 2014 - trước Kinh Truyền Tin  

Rôma – 26/01/2014 (Zenit.org)
"Cả hôm nay nữa, ngay lúc này, Chúa đang đi qua quảng trường, Ngài gọi chúng ta hãy đi theo Ngài, hãy làm việc với Ngài cho Vương Quốc Thiên Chúa", Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố như thế sáng Chúa Nhật 26/01/2014 vừa qua tại quảng trường Thánh Phêrô .
Đức Thánh Cha đã chủ sự Kinh Truyền Tin, từ cửa sổ văn phòng dinh Giáo Hoàng, mở ra quảng trường Thánh Phêrô, hồi trưa ngày Chúa Nhật rồi trước hàng vạn khách hành hương.
Trong đám đông, có những người trẻ của Công Giáo Tiến Hành giáo phận Rôma (ACR). Họ hướng dẫn "Đoàn hành hương hòa bình", trong suốt tháng giêng mà họ có truyền thống dành cho hòa binh. Như tập tục, một cậu trai và một cô gái đã ở cạnh Đức Thánh Cha trước khi đọc một thông điệp nhân danh ACR  và thả hai con chim bồ câu.
Sau đây là bản dịch toàn văn những lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng trước Kinh Truyền Tin.
A.B.
Huấn dụ của Đức Thánh Cha Phanxicô trước Kinh Truyền Tin.
Thân chào quý anh chị em !
Tin Mừng hôm nay kể về lúc ban đầu đời sống công cộng của Chúa Giêsu trong những thành phố và trong các làng mạc xứ Galilêa. Sứ mạng của ngài không xuất phát từ Giêrusalem, nghĩa là từ trung tâm tôn giáo, cũng là trung tâm xã hội và chính trị, nhưng lại xuất phát từ một vùng ngoại vi, một vùng bị những người Do Thái cực đoan nhất coi thường, lý do là ở vùng này có sự hiện diện của nhiều sắc dân nước ngoài khác nhau : vì thế mà tiên tri Isaia chỉ ra như một "Galilê của muôn dân" (Is 8, 23).
Đó là một vùng đất biên giới, một vùng quá cảnh nơi người ta gặp gỡ người của các dân tộc, các văn hóa và các tôn giáo khác nhau. Galilêa như thế, trở nên nơi tiêu biểu của Phúc Âm để mở ra cho tất cả các dân tộc.
Từ quan điểm này, Galilêa giống như thế giới ngày hôm nay : có sự hiện diện của các nền văn hóa khác nhau, cần đối mặt và cần gặp gỡ. Chúng ta cũng vậy, mỗi ngày chúng ta được dìm trong một "Galilêa của muôn dân", và trong bối cảnh đó, chúng ta có thể sợ hãi và sa chước cám dỗ xây lên những hàng rào để được an toàn hơn, được bảo vệ hơn. Nhưng Chúa Giêsu dạy cho chúng ta rằng Tin Mừng Ngài mang đến không dành riêng cho chỉ một phần của nhân loại, mà là để loan truyền cho tất cả mọi người. Đó là một thông báo vui mừng dành cho những người đang đợi chờ, nhưng cũng cho những người, có lẽ, không còn chờ đợi gì nữa và cũng không còn sức lực để tìm kiếm và để yêu cầu.
Xuất phát từ xứ Galilêa; Chúa Giêsu dậy cho chúng ta rằng, không có một ai bị loại ra khỏi sự cứu độ của Thiên Chúa, trái lại, Thiên Chúa lựa chọn ra đi từ vùng biên, từ những người bị xã hội bỏ quên, để tới với mỗi người. Ngài dậy chúng ta một phương pháp, phương pháp của Ngài, nói lên nội dung là lòng thương xót của Chúa Cha. "Mọi Kitô hữu và mọi cộng đoàn Kitô giáo sẽ phân định đâu là con đường mà Chúa yêu cầu, nhưng tất cả chúng ta đều được gọi để chấp nhận tiếng gọi đó : đi ra khỏi sự tiện nghi của mình và có can đảm đi tới những vùng ngoại biên đang cần ánh sáng Phúc Âm" (Evangelii gaudium, 20).
Chúa Giêsu không chỉ bắt đầu xứ mạng của Ngài từ một nơi ngoại vi, nhưng còn bằng những người mà người ta có thể coi như là "thấp hèn". Để chọn lựa những môn đệ đầu tiên của Ngài, và những tông đồ tương lai, Ngài không tìm đến các trường giáo sĩ hay luật sĩ, mà tìm đến những người khiêm nhường, những người đơn sơ, đang hăng hái chuẩn bị sự tới gần của Vương Quốc Thiên Chúa. Chúa Giêsu đi gọi họ ở những nơi họ làm việc, trên bờ hồ : họ là những ngư dân. Ngài gọi họ và họ đi theo Ngài ngay lập tức. Họ đã bỏ thuyền, bỏ lưới và ra đi với Ngài : cuộc đời họ sẽ trở nên một cuộc mạo hiểm phi thường và quyến rũ.
Các bạn thân mến, ngày hôm nay Chúa cũng gọi chúng ta như vậy ! Chúa đi qua trên những nẻo đường cuộc đời hàng ngày của chúng ta. Ngày hôm nay nữa, ngay lúc này, Chúa đang đi qua trên quảng trường. Ngài gợi chúng ta đi với Ngài, làm việc với Ngài cho Vương Quốc Thiên Chúa, trong những "xứ Galilêa" của thời đại chúng ta. Xin mỗi người trong anh chị em hãy nghĩ về chuyện này : Hôm nay Chúa đi ngang qua, Chúa nhìn tôi, Ngài đang nhìn tôi ! Chúa nói với tôi điều gì ? Và nếu một người trong anh chị em nghe được Chúa nói với mình : "Theo Ta !", xin cho người đó có can đảm, xin cho người đó đi với Chúa ! Chúa khong bao giờ làm thất vọng. Anh chị em hãy nghe trong trái tim mình xem Chúa có gọi anh chị em đi theo Ngài. Chúng ta hãy để mình lọt vào mắt Ngài, nghe được tiếng Ngài, và chúng ta hãy đi theo Ngài ! "Để cho Phúc Âm đến tận tận cùng trái đất và để không có vùng ngoại vi nào bị lấy đi mất ánh sáng của Ngài" (ibid., 288).
Bản dịch tiếng Pháp : Anita Bourdin (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(26 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/en-ce-moment-le-seigneur-passe-sur-la-place-il-nous-appelle

Tết âm lịch :
Đức Giáo Hoàng chúc tết các dân tộc Á Châu

Cho một thế giới nhân bản hơn nơi hòa bình ngự trị  

Rôma – 26/01/2014 (Zenit.orgAnita Bourdin
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi lời chúc tết các dân tộc Á Châu đang chuẩn bị trong những ngày này Tết Âm Lịch, để "xây dựng một thế giới nhân bản hơn nơi hòa bình ngự trị".
Sau Kinh Truyền Tin hôm Chúa Nhật 26/01/2014, trên quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã thêm lời chào mừng sau đây : "Hàng triệu người đang sống tại Viễn Đông hay đang sống rải rác trên khắp các nơi trên thế giới –đáng kể là người Trung Hoa, người Hàn Quốc và người Việt Nam- sẽ mừng đón Tết Âm Lịch trong những ngày tới đây. Tôi chúc tất cả mọi người họ một cuộc sống đầy vui tươi và hy vọng"
Đức Thánh Cha đã đặc biệt nhấn mạnh về gia đình như là trường học của tình huynh đệ : "Mong rằng khát vọng không phai mờ để sống tình huynh đệ hằng ở trong lòng mọi người và tìm được, trong tình thâm gia đình, môi trường ưu đãi để có thể được khám phá, giáo dục, và thực hiện. Đó sẽ là sự đóng góp quý giá để xây dựng một thế giới nhân bản hơn nơi hòa bình ngự trị".
Mạc Khải phỏng dịch.
(26 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/nouvel-an-lunaire-voeux-du-pape-aux-peuples-d-asie

 

 

Truyền thông phục vụ cho nền văn hóa hội ngộ
Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội (toàn văn) 

 

 

Rôma – 23/01/2014 (Zenit.org)
Truyền thông phục vụ một nền văn hóa hội ngộ đích thực" : đó là chủ đề của sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội, được công bố ngày hôm nay, ngày vọng 24/01/2014, lễ phụng vụ kính nhớ Thánh Tổ Truyền Thông, Phanxicô Salesiô.
"Trên thế giới này, truyền thông có thể góp phần làm cho chúng ta cảm thấy gần nhau hơn; làm cho chúng ta nhận thấy ý nghĩa mới mẻ của sự hiệp nhất gia đình nhân loại, thúc đẩy tình liên đới và sự dấn thân nghiêm túc cho một cuộc sống xứng đáng hơn. Truyền thông tốt giúp cho chúng ta xích lại gần nhau và tìm hiểu nhau hơn, giúp chúng ta đoàn kết hơn", Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích.
Trang mạng của Giáo Hội Công Giáo Pháp nhắc rằng "Ngày Thế Giới Truyền Thông" có mục tiêu làm hiểu rõ hơn các phương tiện truyền thông : "các Kitô hữu được mời gọi hãy khám phá truyền thông và những khí cụ truyền thông được Giáo Hội đề nghị, hãy cầu nguyện cho những người nam và nữ đang hành nghề truyền thông, hãy quyên góp để giúp đỡ các ủy ban thông tin và truyền thông của giáo phận".
Đây là ngày lễ mang tầm vóc thế giới duy nhất được thiết lập bởi Công Đồng Vaticanô II (Inter Mirifica, 1963). Ngày này được cử hành mỗi năm tại nhiều quốc gia, thể theo lời khuyên bảo của các Đức Giám Mục, vào ngày Chúa Nhật trước Lễ Ngũ Tuần : năm nay, nhằm vào ngày 01/5/2014.
Sau đây là bản dịch toàn văn sứ điệp của Đức Giáo Hoàng.
Anita Bourdin
Sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Truyền thông phục vụ một nền văn hóa hội ngộ đích thực
Anh chị em thân mến,
Ngày hôm nay, chúng ta sống trong một thế giới đang trở thành ngày càng "nhỏ bé" và dường như ngày càng dễ dàng gần gũi lại với nhau hơn. Sự phát triển giao thông và những kỹ thuật truyền thông làm chúng ta gần lại với nhau, nối liền chúng ta với nhau ngày một nhiều hơn, và sự kiện toàn cầu hóa khiến chúng ta phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, trong lòng nhân loại vẫn tồn tại những chia rẽ, đôi khi rất sâu đậm. Trên tầm mức thế giới, chúng ta thấy sự cách biệt quá đáng giữa cái sa hoa của những kẻ cực kỳ giầu sang và sự khốn cùng của những người nghèo khổ nhất. Nhiều khi chỉ cần đi ra ngoài đường phố của một đô thị để nhìn thấy sự tương phản giữa những người sống ngoài hè phố và những ánh đèn rực rỡ trong các cửa tiệm. Chúng ta quá quen thuộc với cái cảnh này đến nỗi không còn đánh động chúng ta nữa. Thế giới bị đau khổ bởi nhiều hình thức thải loại, hình thức bị gạt ra ngoài xã hội và hình thức nghèo khổ; cũng như hình thức những cuộc chiến tranh với các lý do lẫn lộn : kinh tế, chính trị, chủ thuyết và, đáng tiếc, kể cả tôn giáo.
Trong cái thế giới này, các phương tiện truyền thông có thể góp phần làm cho chúng ta cảm thấy gần nhau hơn; làm cho chúng ta nhận thấy ý nghĩa mới mẻ của sự hiệp nhất gia đình nhân loại, thúc đẩy tình liên đới và sự dấn thân nghiêm túc cho một cuộc sống xứng đáng hơn. Truyền thông tốt giúp cho chúng ta xích lại gần nhau và tìm hiểu nhau hơn, giúp chúng ta đoàn kết hơn. Chúng ta cần phải giải quyết những sự khác biệt qua các hình thức đối thoại cho phép chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết và sự tôn trọng. Nền văn hóa hội ngộ đòi hỏi chúng ta sẵn sàng không những để cho đi, mà còn là để tiếp nhận của người khác. Các hệ thống truyền thông có thể giúp chúng ta trong lãnh vực này, nhất là ngày hôm nay, trong khi mà các mạng truyền thông của con người đã đạt tới một tiến độ phi thường. Đặc biệt, mạng Internet có thể cống hiến nhiều khả năng gặp gỡ và liên đới giữa chúng ta hơn nữa; và đây là điều tốt lành, đây là một ơn phúc của Thiên Chúa.
Tuy nhiên cũng còn có một số vấn đề : tốc độ thông tin vượt xa hơn khả năng suy nghĩ và phán đoán của chúng ta và không giúp cho một sự biểu hiện bản thân một cách chừng mực và đúng đắn. Sự đa dạng của những ý kiến biểu lộ có thể coi như một sự phong phú, nhưng [chúng ta] cũng có thể tự nhốt mình trong một khung cảnh thông tin chỉ phù hợp với những mong đợi của chúng ta với những ý kiến của chúng ta, hay cả với những lợi ích chính trị và kinh tế nhất định. Môi trường truyền thông có thể giúp chúng ta lớn lên hay, trái lại, làm cho chúng ta mất phương hướng. Sự mong muốn kết nối kỹ thuật số có thể  dẫn chúng ta đến chỗ cô lập với tha nhân, với những người thân cận nhất của chúng ta. Không quên những người, vì nhiều lý do khác nhau, đã không thể tiếp cận với những phương tiện truyền thông xã hội, và có nguy cơ bị gạt ra ngoài xã hội.
Những giới hạn này là có thật, tuy vậy, chúng không biện minh cho một sự bãi bỏ các phương tiện truyền thông xã hội; thay vào đó, chúng nhắc nhở cho chúng ta rằng, rốt cuộc, truyền thông là một sự chinh phục của con người hơn là của kỹ thuật. Vì thế, điều gì sẽ giúp chúng ta trong môi trường kỹ thuật số để lớn lên về nhân bản và trong sự hiểu biết lẫn nhau ? Thí dụ, chúng ta phải tìm lại được một ý nghĩa nào đó cho sự chậm chạp và bình thản. Điều này yêu cầu thời gian và khả năng giữ im lặng để lắng nghe. Chúng ta cũng cần phải có sự kiên nhẫn nếu chúng ta muốn hiểu được những người khác với chúng ta : con người phát biểu đầy đủ không phải là khi người đó chỉ đơn giản được dung nạp, mà là khi người đó cảm thấy thực sự được đón nhận. Nếu chúng ta thực sự mong muốn nghe người khác, khi đó chúng ta sẽ học được cách nhìn thế giới với đôi mắt khác, và đánh giá kinh nghiệm nhân bản như nó thể hiện trong các nền văn hóa và truyền thống khác nhau. Nhưng chúng ta cũng phải đánh giá những giá trị lớn được gợi ý bởi Kitô giáo, như một nhãn quan nhân bản với tư cách của con người, của hôn nhân và của gia đình, sự phân biệt giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực chính trị, những nguyên tắc liên đới và bổ trợ và nhiều thứ khác nữa.
Như vậy, làm sao để truyền thông có thể phục vụ một nền văn hóa hội ngộ đích thực ? Và đối với chúng ta, môn đệ của Chúa, gặp gỡ một người, theo Phúc Âm, có nghĩa gì ? Làm thế nào để, mặc dù tất cả những giới hạn và tội lỗi của chúng ta, chúng ta thực sự gần gũi với nhau được ? Những câu hỏi này tóm gọn trong câu mà có hôm, một thầy luật sĩ, nghĩa là người truyền thông, đã hỏi Chúa Giêsu : "Và ai là người thân cận của tôi ?" (Lc 10, 29). Câu hỏi này giúp chúng ta hiểu truyền thông trong nghĩa gần gũi. Chúng ta có thể phiên dịch như sau : "sự gần gũi" thể hiện như thế nào trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông và trong môi trường mới được tạo ra bởi kỹ thuật số ? Tôi tìm được một câu trả lời trong dụ ngôn người Samari tốt lành, vốn cũng là dụ ngôn người truyền thông. Quả vậy, người truyền thông tìm cách gần gũi. Và người Samari tốt lành, không những đã tới gần, mà còn chăm lo cho người mà anh ta thấy đang nửa sống, nửa chết bên vệ đường. Chúa Giêsu đảo lộn viễn cảnh : vấn đề không phải là nhận biết người khác là người thân cận, mà nhận biết khả năng của tôi để trở thành thân cận với người khác. Như thế, truyền thông có nghĩa ý thức được mình là con người, là con cái Thiên Chúa. Tôi thích định nghĩa khả năng truyền thông này như một "sự gần gũi".
Khi mà truyền thông trước hết dành để thúc đẩy tiêu thụ hay là thúc đẩy sự thao túng con người, chúng ta chứng kiến một sự tấn công bạo lực như trường hợp người kia bị bọn cường đạo đả thương bên vệ đường, như chúng ta đọc trong dụ ngôn. Nơi người này, thầy Lêvi và thầy Tư Tế đã không hề thấy đó là người thân cận của họ, mà như người xa lạ cần phải tránh xa. Vào lúc đó, điều khiến họ làm như vậy, chính là những quy định về sự thanh tịnh nghi lễ. Ngày hôm nay, chúng ta cũng có nguy cơ một số phương tiện truyền thông điều kiện hóa chúng ta đến nỗi làm cho chúng ta không biết đến người thân cận đích thực của chúng ta.
Không phải chỉ lướt trên những "con đường" kỹ thuật số, nghĩa là chỉ làm cái việc nối mạng là đủ : cần phải làm cho nối mạng kèm theo một sự gặp gỡ thật sự. Chúng ta không thể sống cô lẻ, khép kín trong bản thân. Chúng ta cần yêu và cần được yêu. Chúng ta cần được sự trìu mến. Không phải những chiến lược truyền thông sẽ bảo đảm có Chân, Thiện, Mỹ. Hơn nữa, thế giới truyền thông không thể đứng ngoài những lo âu của nhân loại, nó có chức năng phải biểu lộ sự trìu mến. Mạng kỹ thuật số có thể là một nơi chốn đầy tính nhân bản, không chỉ là một mạng lưới những sợi dây, mà mạng lưới những con người. Tính trung lập của các phương tiện truyền thông chỉ là bề ngoài : chỉ người nào truyền thông bằng cách đặt chính bản thân mình trong đó mới có thể tượng trưng cho một điểm chuẩn. Sự can dự cá nhân chính là gốc rễ của sự khả tín của một người truyền thông. Vì thế, việc làm chứng Kitô giáo, nhờ vào mạng, có thể đạt đến những vùng ngoại vi của cuộc sống.
Tôi thường hay nhắc rằng : giữa một Giáo Hội bị tai nạn đi ra ngoài phố, và một Giáo Hội đau ốm bệnh tự tham chiếu, tôi không có do dự, tôi chọn Giáo Hội thứ nhất. Và con đường là những con đường trên thế giới nơi con người sinh sống, nơi người ta có thể gặp gỡ họ một cách thực tế và tình cảm. Trong những con đường đó, cũng có những con đường kỹ thuật số, đông đảo người ta, nhiều khi mang thương tích : những người nam, nữ đang đi tìm một sự cứu rỗi hay một niềm hy vọng. Cũng nhờ mạng, thông điệp Kitô giáo có thể chuyển đi "cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1, 8). Mở cửa các thánh đường cũng có nghĩa là mở cửa vào môi trường kỹ thuật số, để hoặc là cho người ta bước vào, bất chấp điều kiện đời sống và nơi chốn họ ở, hoặc là để cho Phúc Âm có thể bước qua ngưỡng cửa đền thờ và đi ra gặp gỡ mọi người. Chúng ta được mời gọi làm chứng cho một Giáo Hội là ngôi nhà của tất cả mọi người. Liệu chúng ta có khả năng truyền thông khuôn mặt của một Giáo Hội như thế hay không ? Truyền thông đóng góp vào việc tạo hình cho ơn gọi truyền giáo của toàn thể Giáo Hội, và ngày nay, các mạng xã hội là một trong những nơi chốn để sống ơn gọi đó và để tái khám phá cái đẹp của đức tin, cái đẹp của sự hội ngộ với Đức Kitô. Kể cả trong bối cảnh truyền thông, cũng cần có một Giáo Hội để mang đến hơi ấm và nung đốt con tim.
Việc làm chứng Kitô giáo không thể thực hiện bằng cách làm tràn ngập [các mạng] với những thông điệp tôn giáo, mà bằng thiện chí hiến mình cho người khác "qua sự sẵn sàng can dự, với lòng kiên nhẫn và tôn trọng, vào những vấn đề, những nghi nan của họ, trên con đường đi tìm chân lý và ý nghĩa của kiếp nhân sinh" (ĐGH Biển Đức XVI, Thông điệp nhân Ngày Truyền Thông Xã Hội Thế Giới lần thứ 47, 2013). Chúng ta hãy nghĩ về giai đoạn các môn đệ trên đường Êmau. Phải biết bắt chuyện với người ta trong ngày hôm nay, nam cũng như nữ, để hiểu được những chờ đợi, những nghi nan, những hy vọng của họ, và đề nghị với họ Phúc Âm, nghĩa là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta ra khỏi tội lỗi và sự chết. Thách đố cần có chiều sâu, cần sự quan tâm đến sự sống, cần sự nhậy cảm thiêng liêng. Đối thoại có nghĩa là tin chắc rằng người khác có điều gi tốt đẹp cần nói ra, là dành chỗ cho quan điểm của họ, cho những đề nghị của họ. Đối thoại không có nghĩa là từ bỏ những ý kiến và truyền thống của riêng mình, mà phải từ bỏ tham vọng cho những thứ đó là duy nhất, là tuyệt đối.
Mong rằng hình ảnh người Samari tốt lành, săn sóc các thương tích cho người bị thương bằng cách đổ dầu và rượu, hướng dẫn chúng ta. Mong rằng truyền thông của chúng ta là một loại dầu thơm chữa đau đớn và thứ rượu tốt đem lại niềm hoan lạc. Sự tỏa sáng của chúng ta không đến từ xảo thuật hay hiệu ứng đặc biẹt, mà đến từ khả năng của chúng ta trở nên gần gũi với mọi người bị thương tích mà chúng ta gặp gỡ dọc đường, với yêu thương và trìu mến. Anh chị em đừng sợ phải trở nên những công dân trên địa hạt kỹ thuật số. Sự quan tâm và sự hiện diện của Giáo Hội đều quan trọng trong thế giới truyền thông, để đối thoại với con người của ngày hôm nay và đưa người đó tới gặp gỡ Đức Kitô : một Giáo Hội đồng hành trên đường, biết cất bước với tất cả mọi người. Trong bối cảnh này, cuộc cách mạng các phương tiện truyền thông và thông tin là một thách đó to lớn và thú vị, đòi hỏi những năng lực mới mẻ và một óc tưởng tượng tân thời để truyền đạt cho người khác vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Từ Vatican, ngày 24/01/2014, Lễ kính thánh Phanxicô Salêsiô + Phanxicô
Mạc Khải phỏng dịch
(23 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/la-communication-au-service-de-la-culture-de-la-rencontre

 

"Thánh Danh Đức Kitô
tạo hiệp thông và hiệp nhất, không tạo chia rẽ !"

Bài Giáo Lý ngày 22 tháng 01 năm 2014 (toàn văn) 

Rôma – 23/01/2014 (Zenit.org)
Thánh Danh Đức Kitô tạo hiệp thông và hiệp nhất, không tạo chia rẽ !" Đức Giáo Hoàng Phanxicô hô hào và dành bài giáo lý ngày thứ tư 22/01/2014 này, trên quảng trường Thánh Phêrô, cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Ngài đã tố cáo sự chia rẽ của những người đã chịu Phép Rửa như là một "điều tai tiếng" phải được "chấm dứt" và để cứu chữa tình trạng này và công nhận ơn Thiên Chúa ban cho người khác, ngài đã mời gọi : "Thật là tốt lành khi nhận biết ơn phúc mà Thiên Chúa ban xuống tràn đầy cho chúng ta, và còn tốt lành hơn nữa khi thấy nơi các Kitô hữu khác cái mà chúng ta đang cần, cái mà chúng ta có thể lãnh nhận như một quà tặng đến từ những người anh chị em chúng ta".
Sau đây là bản dịch toàn văn bài giáo lý bằng tiếng Ý của Đức Giáo Hoàng.
Bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Thân chào quý anh chị em !
Thứ bẩy tuần trước đã bắt đầu Tuần Lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Tuần lễ này sẽ kết thúc và thứ bẩy tới đây, ngày lễ kính nhớ Sự Trở Lại của thánh Phaolô Tông Đồ. Sáng kiến có giá trị thiêng liêng đáng quý này đã lôi cuốn các cộng đoàn Kitô hữu từ hơn 100 năm nay. Đây là một thời gian dành để cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những người đã chịu Phép Rửa, theo Thánh Ý Đức Kitô : "để tất cả nên một" (Ga 17, 21).
Mỗi năm, một nhóm đại kết của một vùng trên thế giới, dưới sự chỉ đạo của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội và Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Hiệp Nhất Kitô Hữu, đề nghi tiêu đề và chuẩn bị những ý chỉ cho Tuần Lễ Cầu Nguyện. Năm nay, những ý chỉ đó đến từ các Giáo Hội và các Cộng Đoàn thuộc Giáo Hội Canađa, và có liên quan đến câu hỏi của thánh Phaolô đặt cho các Kitô hữu ở Corintô : "Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bẩy rồi ư ?" (1 Cr 1, 13).
Không, chắc chắn là Đức Kitô không bị chia năm xẻ bẩy. Nhưng chúng ta cũng phải thành thật và đau đớn mà nhìn nhận rằng các cộng đoàn của chúng ta tiếp tục sống trong sự chia rẽ, vốn là một điều tai tiếng. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu chúng ta là một điều tai tiếng. Không có từ nào khác : một điều tai tiếng. "Mỗi người trong anh chị em –thánh Phaolô Tông Đồ viết- chẳng phải đã từng nói "tôi thuộc về ông Phaolô", "tôi thuộc về ông Apollos", "tôi thuộc về ông Khêpha" hay "tôi thuộc về Đức Kitô" (1 Cr 1, 12). Kể cả những người tuyên xưng Đức Kitô là Đấng đứng đầu cũng không được thánh Phaolô hoan nghênh, bởi vì họ đã dùng danh Đức Kitô để tách mình ra với người khác trong lòng cộng đoàn Kitô hữu. Đáng lẽ danh thánh Đức Kitô là tạo ra sự hiệp thông và hiệp nhất chứ không phải sự chia rẽ ! Ngài đến để tạo hiệp thông giữa chúng ta, chứ không để chia rẽ chúng ta. Phép Rửa và Thánh Giá là những yếu tố cốt lõi của người môn đệ Đức Kitô mà chúng ta đều có làm của chung. Những chia rẽ, trái lại, làm suy yếu tính khả tín và hữu hiệu của sự dấn thân chúng ta cho Phúc Âm hóa mà còn có nguy cơ làm tiêu tan hiệu lực của Thánh Giá (x. 1 Cr 1, 17). 
Thánh Phaolô trách cứ các tín hữu ở Côrintô vì những phân tranh của họ, nhưng ngài cũng cảm tạ Chúa "về ân huệ Thiên Chúa ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu. Bởi vì trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì đã được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Ngài" (1 Cr 1, 4-5). Những lời nói này không phải chỉ đơn giản là một hình thức, mà là dấu chỉ ngài thấy trước – và ngài đã thật lòng vui mừng – các ân điển Thiên Chúa đã ban cho cộng đoàn. Thái độ này của thánh Tông Đồ là một khuyến khích cho chúng ta, cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết, trong sự vui mừng, những ân điển của Thiên Chúa hiện diện trong các cộng đoàn khác. Mặc cho những đau thương do chia rẽ, vẫn luôn còn gay gắt cho đến ngày hôm nay, tạo ra, chúng ta đón nhận những lời của thánh Phaolô như một sự mời gọi hãy thành tâm vui mừng vì các ơn phúc Thiên Chúa đã ban cho các Kitô hữu. Chúng ta cùng có một Phép Rửa, cùng có một Thần Khí, Đấng ban cho chúng ta Ân Sủng : chúng ta hãy nhận biết lấy và hãy vui mừng lên.
Thật là tốt lành khi nhận biết ơn phúc mà Thiên Chúa ban xuống tràn đầy cho chúng ta, và còn tốt lành hơn nữa khi thấy nơi các Kitô hữu khác cái mà chúng ta đang cần, cái mà chúng ta có thể lãnh nhận như một quà tặng đến từ những người anh chị em chúng ta. Nhóm Canađa là nhóm chuẩn bị những ý chỉ cho Tuần Lễ Cầu Nguyện này, đã không mời gọi các cộng đoàn hãy suy nghĩ về những gì có thể cống hiến cho những Kitô hữu bên cạnh mình, mà đã hô hào các cộng đoàn hãy hội ngộ cùng nhau để tìm hiểu điều mà tất cả các cộng đoàn có thể, không ngoại trừ ai, lãnh nhận được điều gì từ các cộng đoàn khác. Nhưng điều này đòi hỏi nhiều hơn nữa : cầu nguyện nhiều, khiêm nhường, suy nghĩ và một sự trở lại thường xuyên. Chúng ta hãy tiến bước trên con đường này, trong lúc cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, hầu cho cái điều tai tiếng này phải chấm dứt và không còn chia rẽ chúng ta nữa.
Bản dịch tiếng Pháp : Geneviève d'Avout, với Hélène Ginabat (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(23 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/le-nom-du-christ-cree-la-communion-et-l-unite-pas-la-division

 

 

Chỉ có tình thương mới thắng được sự ác
Kinh Truyền Tin ngày 19 tháng 01 năm 2014 (toàn văn)

 

Rôma – 19/01/2014 (Zenit.org)
"Không cách nào khác để thắng sự ác và tội lỗi, ngoài tình yêu thương thúc đẩy hiến cả mạng sống của mình cho người khác", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh.
Từ cửa sổ mở ra quảng trường Thánh Phêrô, ở Vatican, Đức Giáo Hoàng đã chủ tọa Kinh Truyền Tin, trưa ngày Chúa Nhật 19/01/2014.
Ngài đã nhắc đến Ngày Thế Giới Người Di Dân và tỵ nạn, được tổ chức ngày hôm nay trên tiêu đề "Di Dân và Tỵ Nạn : hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn" : "Anh chị em đừng mất hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn !", ngài đã nói với các di dân, những lời khuyến khích hãy giữ lấy "những giá trị của các nền văn hóa gốc của mình".
Đức Giáo Hoàng cũng đã kêu gọi hãy bảo vệ những người di dân khỏi bị "bọn buôn xác thịt con ngườỉ đang muốn biến họ thành nô lệ".
Lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Kinh Truyền Tin (bằng tiếng Ý)
Thân chào quý anh chị em !
Với lễ Chúa chịu Phép Rửa, cử hành Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã đi vào mùa phụng vụ được gọi là "thường niên". Vào Chúa Nhật thứ nhì này, Phúc Âm trình bày cho chúng ta cảnh gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả, gần sông Gio-đan. Người kể lại là chứng nhân, mắt thấy, tai nghe, thánh Gioan Sử Gia, trước khi là môn đệ của Chúa Giêsu đã là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, cùng với anh ông là Giacôbê, các ông Simông và An-rê, tất cả đều là người Ga-li-lê-a, tất cả đều là ngư dân. Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu bước tới giữa đám đông và, được soi sáng từ trên cao, nhận ra nơi Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai tới, và đã giới thiệu Ngài bằng những lời sau đây : "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1, 29).
Động từ được phiên dịch bằng từ ngữ "xóa" có nghĩa từng chữ là "cất đi", "mang lấy trên mình". Chúa Giêsu đã đến thế gian với một sứ vụ rõ rệt : giải thoát thế gian khỏi ách nô lệ tội lỗi, gánh lấy những lầm lỗi của nhân loại. Bằng cách nào ? Bằng yêu thương. Không có cách nào khác để thắng sự ác và tội lỗi nếu không phải là với tình yêu thương thúc đẩy hiến tặng mạng sống mình cho người khác. Trong lời chứng của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu có những nét của Tôi Tớ Thiên Chúa, là Đấng "đã gánh chịu lấy những đau khổ của chúng ta" (Is 53, 4), đến độ chết trên thập giá. Ngài là con chiên Vượt Qua đích thực, đã chìm xuống giòng sông tội lỗi của chúng ta, để thanh tẩy chúng ta.
Gioan Tẩy Giả nhìn thấy trước mặt mình một người cùng xếp hàng với các ngư dân để được chịu Phép Rửa, trong lúc Ngài không cần phải thế. Một Người mà Thiên Chúa đã gửi xuống thế gian như con chiên hi tế. Trong Tân Ước, từ ngữ "chiên" trở lại nhiều lần và luôn liên hệ đến Chúa Giêsu. Hình ảnh "con chiên" này có thể gây kinh ngạc; quả vậy, một con vật không có đặc tính của sức mạnh và vóc dáng mà phải mang trên vai một gánh nặng quá lớn. Khối lớn điều ác được cất đi và mang đi bởi một con vật yếu đuối và mỏng manh, biểu tượng của sự vâng lời, sự ngoan ngoãn và tình yêu không chống đỡ, đến mức phải hy sinh bản thân. Con chiên không phải là một con vật thống trị, mà nó ngoan ngoãn; nó không hiếu chiến, mà hiếu hòa; nó không nhe răng, múa vuốt dù có bị tấn công như thế nào, nhưng nó chịu đựng và phục tùng. Và Chúa Giêsu là như thế ! Chúa Giêsu là như thế, như một con chiên.
Đối với Giáo Hội, đối với chúng ta, ngày hôm nay, là môn đệ của Chúa Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa, có nghĩa là gì ? Có nghĩa là hãy đặt ngây thơ vào chỗ của ác ý, đặt tình yêu vào chỗ bạo ực, đặt khiêm nhường vào chỗ cao ngạo, đặt phục vụ vào chỗ uy nghi. Thật là một công việc to lớn ! Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta phải làm điều đó : đặt ngây thơ vào chỗ ác ý, đặt tình yêu vào chỗ bạo ực, đặt khiêm nhường vào chỗ cao ngạo, đặt phục vụ vào chỗ uy nghi. Là môn đệ của Con Chiên có nghĩa không phải là sống như một "thành trì bị vây hãm", mà như một thành phố trên ngọn đồi, mở cửa, đón nhận, liên đới. Điều đó muốn nói, không phải khoác lấy những thái độ đóng cửa, mà là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người, làm chứng bằng đời sống của chúng ta, rằng theo Chúa Giêsu làm cho chúng ta tự do hơn, vui mừng hơn.
Huấn dụ sau Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến,
Hôm nay là Ngày Thế Giới Người Di Dân và Tỵ Nạn, được cử hành trên tiêu đề "Di Dân và Tỵ Nạn : hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn", mà tôi đã triển khai trong một sứ điệp được công bó thời gian gần đây. Tôi gửi lời chào đặc biệt đến các vị đại biểu của các cộng đồng dân tộc khác nhau đang tụ họp nơi đây, đặc biệt đến các cộng đoàn Công Giáo của Rôma. Các bạn thân mến, các bạn đang ở gần trái tim của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là một chúng dân lữ hành hướng về Vương Quốc của Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu đã mang lại giữa chúng ta. Anh chị em đừng mất hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn ! Tôi chúc anh chị em sống bình an trong những quốc gia đã đón nhận anh chị em, trong lúc luôn phẳi giữ lấy những nền văn hóa nguồn gốc của mình.
Tôi muốn cảm ơn những người làm việc bên cạnh người di dân để đón tiếp họ và để đồng hành với họ trong những giờ phút khó khăn để bảo vệ họ khỏi những kẻ mà chân phước [Gioan Baotixita] Scalabrini gọi là "những kẻ buôn bán xác thịt con người", chúng muốn biến những di dân thành nô lệ. Cách riêng, tôi muốn cảm ơn Hiệp Hội các Nhà Truyền Giáo Thánh Charles, các linh mục và nữ tu dòng Scalabrini đã làm biết bao điều tốt lành cho Giáo Hội và đã tự nguyện trở thành di dân với các di dân.
Bây giờ, chúng ta hãy nghĩ tới biết bao người di dân, biết bao người tỵ nạn, nghĩ tới những đau khổ của họ, tới cuộc sống của họ, quá nhiều lúc không có công ăn việc làm, không giấy tờ tùy thân, bao nhiêu đau khổ; tất cả chúng ta có thể dâng một lời cầu nguyện cho những người di dân và tỵ nạn đang sống trong những hoàn cảnh trầm trọng nhất, khó khăn nhất : Kính mừng Maria…
Tôi thân ái chào tất cả các tín hữu đến từ các giáo xứ của nước Ý và những nước khác, cũng như các đoàn thể và các nhóm khác nhau. Tôi chào cách riêng các khách hành hương Tây Ban nha đến từ Pontevedra, La Coruna, Murcia và các sinh viên của Badajoz. Tôi chào các cựu học sinh của trường Œuvre de Don Orione, Hội các tín hữu giáo dân Tình Yêu Thương Xót và Ca Đoàn "Thánh Phanxicô" của Montelupone.
Tôi chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt đẹp. Tạm biệt !
Bản dịch tiếng Pháp : Anne Kurian (Zenit)
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải (GHXHCG)
(19 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/seul-l-amour-peut-vaincre-le-mal

 

Ơn gọi là sự làm chứng cho chân lý
Thông điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi lần thứ 51  

Rôma – 16/01/2014 (Zenit.org)
"Ơn gọi, sự làm chứng cho chân lý" : đó là chủ đề thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, sẽ được cử hành ngày 11 tháng 05 năm 2014, chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh.
Trong thông điệp của ngài được công bố 16/01/2014, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng con người thuộc quyền "sở hữu" của Thiên Chúa, không phải trên ý nghĩa là quyền sở hữu nô lệ hóa, nhưng là một mối quan hệ gắn liền với Thiên Chúa và giữa chúng ta, theo một thoả hiệp giao ước kéo dài đời đời"
"Mỗi ơn gọi luôn yêu cầu một cuộc ra đi từ chính mình để tập trung chính cuộc sống của mình lên Đức Kitô và Phúc Âm của Ngài", Đức Giáo Hoàng nói thêm, ngài khuyến khích nên "vượt khỏi những cách suy nghĩ và hành động không phù hợp với Thánh Ý Chúa", không sợ phải "đi ngược giòng" và "gặp những trở ngại, bên ngoài [mình] và trong [mình]". 
Ngài mời gọi hãy "lắng nghe và đi theo Chúa Giêsu, hãy để cho Chúa biến đổi nội tâm bằng lời dạy của Chúa" và hãy "tin tưởng tham gia vào con đường cộng đoàn biết giải phóng nơi chính mình và xung quanh mình những năng lượng tốt đẹp nhất".
Thông điệp Ngày Cầu Nguyện cho Ơn Gọi
Ơn gọi, làm chứng cho chân lý
Anh chị em thân mến,
1. Phúc Âm kể rằng "Chúa Giêsu đã đi khắp các tỉnh thành, làng mạc… Nhìn thấy các đám đông, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương, vì họ bị lầm than, vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Ngài nói với môn đệ rằng : "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9, 35-38).  Những lời này làm chúng ta kinh ngạc, bởi vì tất cả chúng ta đều biết, trước hết phải cầy xới, gieo vãi và trồng trọt để có thể sau đó, đến đúng thời vụ, gặt hái mùa màng sung mãn. Ngược lại, Chúa Giêsu khẳng định rằng "Lúa chín đầy đồng".  Nhưng ai đã làm cho có kết quả như vậy ? Chỉ có một câu trả lời : Thiên Chúa. Đương nhiên, cánh đồng mà Chúa Giêsu nói là nhân loại, là chính chúng ta. Và hành động hữu hiệu, cội nguồn của "nhiều hoa quả", đó chính là ân điển của Thiên Chúa, sự hiệp thông với Ngài (x. Ga 15, 5). Lời cầu xin mà Chúa Giêsu yêu cầu Giáo Hội liên quan đến việc gia tăng số người phục vụ trong Vương Quốc của Ngài. Thánh Phaolô, là một trong những "cộng tác viên của Thiên Chúa" đã không mệt mỏi, hết lòng cho sự nghiệp của Phúc Âm và của Giáo Hội. Với lương tâm của một người đã đích thân trải nghiệm ý chí cứu độ của Thiên Chúa khôn lường đến chừng nào, và sáng kiến của ân sủng là nguồn gốc của mọi ơn gọi, thánh Tông Đồ đã nhắc nhở các tín hữu thành Côrintô rằng : "Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa" (1 Cr 3,9). Bởi vậy, trong thâm tâm chúng ta, nẩy sinh trước hết sự kinh ngạc về một mùa gặt phong phú mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho; rồi đến sự cảm tạ vì một tình yêu thương luôn đến trước (chờ đợi) chúng ta; sau cùng là sự thờ phượng vì công trình Ngài đã hoàn thành, và đang yêu cầu sự sát nhập tự nguyện tham gia của chúng ta để hành động với Ngài và cho Ngài.
2. Biết bao lần, chúng ta đã cầu nguyện bằng những lời của Thánh Vịnh gia : "Chính Ngài dựng nên ta, ta thuộc về Ngài, ta là dân của Ngài, là đoàn chiên Ngài dẫn dắt" (Tv 100, 3): hay còn là : "Vì Chúa đã chọn nhà Gia-cóp, dành Israel làm sản nghiệp riêng" (Tv 135, 4). Thế thì, chúng ta là "của riêng" của Thiên Chúa, không trong ý nghĩa của sự sở hữu mang tính nô lệ hóa, nhưng ý nghĩa của một mối quan hệ mạnh mẽ gắn liền chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau, theo một hiệp định giao ước lâu bền đời đời, vì "muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương) (Tv 136). Trong câu truyện ơn gọi của tiên tri Giêrêmi, chẳng hạn, Thiên Chúa nhắc nhở là Ngài hằng canh thức trên mỗi người, để cho Lời Ngài được thực hiện trong chúng ta. Hình ảnh được chấp nhận là hình ảnh cây hạnh nở hoa trước các cây khác, báo tin sự tái sinh của sự sống vào mùa xuân (x. Gr 1, 11-12). Tất cả đều đến từ Ngài và là do Ngài ban cho; thế gian, sự sống, sự chết, hiện tại, tương lai, nhưng –thánh Tông Đồ trấn an- "anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa" (1 Cr 3, 23). Đó là sự giải thích phương thức thuộc về Thiên Chúa : qua quan hệ duy nhất và cá nhân với Chúa Giêsu, mà Phép Rửa đã ban cho chúng ta từ lúc đầu của sự tái sinh vào cuộc sống mới. Như vậy, chính Đức Kitô đã không ngừng kêu gọi chúng ta bằng Lời của Ngài để chúng ta phó thác tin tưởng nơi Ngài, và yêu mến Ngài "hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực" (x. Mc 12, 33). Vì thế, mỗi ơn gọi, mặc dù có nhiều con đường, luôn yêu cầu một cuộc ra đi từ chính mình để tập trung cuộc sống của riêng mình lên Đức Kitô và Phúc Âm của Ngài. Dù là trong đời sống hôn nhân, dù là trong những nhình thức thánh hiến tu trì, dù là trong đời sống linh mục, cần phải vượt khỏi những cách suy nghĩ và hành động không phù hợp với Thánh Ý Chúa. Đó là cuộc ra đi "dẫn đưa chúng ta tới một con đường thờ lậy Thiên Chúa và phụng sự Ngài trong anh chị em chúng ta" (Diễn văn trước Hiệp hội quốc tế các Bề Trên Thượng Cấp, ngày 08/05/2013). Chính vì vậy mà chúng ta đã được kêu gọi thờ lậy Đức Kitô trong lòng chúng ta (x. 1 Pr 3, 15), để chúng ta được bắt kịp bởi sự thúc đẩy của ân sủng chứa đựng trong hạt giống của Lời, sẽ tăng trưởng trong chúng ta và biến thành sự phục vụ cụ thể cho tha nhân. Chúng ta không được sợ : Thiên Chúa say sưa và khéo léo theo dõi công trình làm ra bởi đôi tay của Ngài, ở mỗi mùa của cuộc đời. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta ! Ngài tha thiết với sự thực hiện dự án của Ngài đối với chúng ta; nhưng tuy vậy, Ngài muốn có được với sự chấp thuận của chúng ta và sự cộng tác của chúng ta.
3. Ngày hôm nay cũng vậy, Chúa Giêsu sống và bước đi trong những thực tế của cuộc đời bình thường để tới gần với mọi người, bắt đầu bằng những người sau chót, và chữa lành những thương tích và bệnh tật của chúng ta. Trong hiện tại tôi muốn nói với những người sẵn sàng lắng nghe tiếng nói của Đức Kitô vang lên trong Giáo Hội, để thấu hiểu ơn gọi riêng của họ. Tôi mời gọi anh chị em hãy lắng nghe và đi theo Chúa Giêsu, hãy để cho mình được biến đổi trong lòng bởi những lời phán dạy của Ngài vốn "là thần khí và là sự sống" (Ga 6, 63). Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta, cũng nhắc cho chúng ta : "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2, 5). Điều đó có ích lợi cho anh chị em để tin tưởng tham gia trên con đường cộng đoàn, biết giải phóng nơi chính mình và xung quanh mình những năng lượng tốt đẹp nhất. Ơn gọi xuất phát từ trái tim của Thiên Chúa và nẩy mầm trong đất tốt của dân trung tín, trong kinh nghiệm của tình yêu huynh đệ. Chúa Giêsu chẳng phải đã phán như vậy sao : "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 35) ?
4. Anh chị em thân mến, sống "ở mức cao này của đời sống Kitô hữu bình thường" (x. ĐGH Gioan Phaolô II, tông thư Novo Millennio ineunte, số 31), nghĩa là đôi khi đi ngược giòng và có cả việc gặp những trở ngại, bên ngoài chúng ta và cả bên trong chính chúng ta nữa. Chính Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta : giống tốt của Lời Thiên Chúa nhiều khi bị quỷ dữ cướp đi, bị ngăn chặn bởi những khó khăn, bị bóp nghẹt bởi những lo lắng sự đời và những mê hoặc của thế gian (x. Mt 13, 19-22). Tất cả những khó khăn này có thể làm chúng ta nản lòng, và khiến chúng ta rút vào những con đường bề ngoài có vẻ thuận tiện hơn. Nhưng niềm vui đích thực của những người được gọi là tin và trải nghiệm rằng Thiên Chúa, Ngài là Đấng trung tín, và với Ngài chúng ta có thể bước tới, là những môn đệ và những chứng tá của tình yêu Thiên Chúa, mở tấm lòng chúng ta ra những cho lý tưởng to lớn, và những chuyện vĩ đại. "Chúng ta, các Kitô hữu, chúng ta không được Chúa chọn để làm những chuyện vặt, anh chị em hãy đi ra ngoài, tới những chuyện lớn. Hãy đánh cá cuộc đời của anh chị em cho những lý tưởng lớn !" (Bài giảng trong Thánh Lễ ban phép Thêm Sức, 28/04/2013). Với các anh em là các giám mục, linh mục, tu sĩ, cộng đoàn và các và các gia đình Kitô giáo, tôi yêu cầu hãy hướng mục vụ ơn gọi theo hướng này, khi đồng hành cùng giới trẻ trên những con đường thánh thiện, và cá nhân, "đòi hỏi một cách giáo dục về sự thánh thiện có khả năng thích hợp với nhịp độ của từng người. Sự giáo dục này sẽ phải sát nhập vào những của cải của đề nghị gửi cho tất cả, những hình thức truyền thống giúp đỡ các nhân và tập thể, và những hình thức mới mẻ hơn được mang tới bởi các hiệp hội và các phong trào được Giáo Hội công nhận" (ĐGH Gioan Phaolô II, tông thư Novo Millennio ineunte, số 31).
Chúng ta hãy để tâm hồn mình sẵn sàng là một vùng "đất tốt" để lắng nghe, đón nhận và sống Lời (Chúa) và như thế, để mang hóa trái. Chúng ta càng hợp nhất với Chúa Giêsu trong cầu nguyện, Thánh Kinh, Thánh Lễ, các Bí Tích được cử hành và trải nghiệm trong Giáo Hội, trong tình huynh đệ sống thật, thì niềm vui hợp tác với Thiên Chúa để phục vụ Vương Quốc của lòng thương xót và của chân lý, công lý và hòa bình càng lớn mạnh. Và mùa gặt sẽ dồi dào, tương xứng với ân điển mà chúng ta đã biết ngoan ngoãn tiếp nhận trong chúng ta. Với lời chúc này, và ước mong anh chị em cầu nguyện cho tôi, tôi hết lòng ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả anh chị em.
Từ Vatican ngày 15 tháng 01 năm 2014-01-17
Phanxicô
Mạc Khải phỏng dịch
(16 janvier 2014) © Innovative Media Inc.
http://www.zenit.org/fr/articles/les-vocations-temoignage-de-la-verite

__________________________                                                                                                                                                                                     ___________________________

<< Trang trước: =